Im Kastanienbaum der Wind Reckt verschlafen sein Gefieder, An den spitzen Dächern rinnt Dämmerung und Mondschein nieder.
Alle Brunnen rauschen kühl Vor sich hin verworrene Sagen, Zehnuhrglocken im Gestühl Rüsten feierlich zum Schlagen.
In den Gärten unbelauscht Schlummern mondbeglänzte Bäume, Durch die runden Kronen rauscht Tief das Atmen schöner Träume.
Zögernd leg ich aus der Hand Meine warmgespielte Geige, Staune weit ins blaue Land, Träume, sehne mich und schweige.
Chú thích của người dịch: Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói thảo nguyên) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật. Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962. Tác phẩm: Thơ: – Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ – Thơ (Gedichte, 1902), thơ – Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ – Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ – Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ – Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ – Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ – Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ – Thơ (Gedichte, 1942), thơ Văn xuôi: - Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch. - Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết. - Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch. - Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông. - Sói thảo nguyên (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết. - Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch. - Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết. - Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.
Những trời chan hòa những vì sao phung phí rực rỡ trên nỗi muộn phiền. Thay vì khóc vào gối chiếc hãy khóc ngước nhìn lên. Mò mẫm xung quanh, cái vũ trụ cuồn cuộn về xa tắp bắt đầu ở đây chính nơi gương mặt khóc, gương mặt kết thúc. Ai đã chặn dòng , nếu anh thúc giục về nơi ấy? Chẳng một ai. Có chăng, bất chợt anh vật lộn với hướng chảy hùng mạnh của các chòm sao nọ đổ về anh. Hãy thở. Hãy hít thở vào tối tăm của trái đất và lại ngước nhìn lên đi! Lần nữa. Từ trên xuống nhẹ nhõm và không bộ mặt, chiều sâu dựa vào anh. Gương mặt hàm chứa đêm lìa dứt cấp cho gương mặt của anh không gian.
Überfließende Himmel verschwendeter Sterne prachten über der Kümmernis. Statt in die Kissen, weine hinauf. Hier, an dem weinenden schon, an dem endenden Antlitz, um sich greifend, beginnt der hin- reißende Weltraum. Wer unterbricht, wenn du dort hin drängst, die Strömung? Keiner. Es sei denn, dass du plötzlich ringst mit der gewaltigen Richtung jener Gestirne nach dir. Atme. Atme das Dunkel der Erde und wieder aufschau! Wieder. Leicht und gesichtslos lehnt sich von oben Tiefe dir an. Das gelöste nachtenthaltne Gesicht giebt dem deinigen Raum.
Chú thích của người dịch: Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại. Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Người ta phải để sự vật có sự phát triển riêng, thầm lặng không bị quấy đảo, đến tự sâu bên trong không dồn ép hoặc tăng tốc bởi bất kỳ thứ gì tất cả được thai nghén – và sau rồi sinh nở…
Chín muồi như cái cây, không ép dồn nước sinh tố của nó và đứng hiên ngang trong giông tố của mùa xuân, không sợ hãi, rằng sau đó có thể không mùa hè nào đến.
Vậy mà mùa hè đến!
Nhưng chỉ đến với người kiên nhẫn, đó đây, như thể Vĩnh cửu phủ phục trước họ, vô sự, xa xăm và lặng lẽ…
Người ta phải có lòng nhẫn nại
Với điều không thể hóa giải trong tim và tìm cách yêu thương lấy những tra vấn của mình, như những căn phòng khóa kín, và như những cuốn sách được viết trong một ngôn ngữ rất xa lạ.
Trọng tâm xoay quanh việc nghiệm sinh tất cả. Nếu người ta sống trải những tra vấn, một cách không nhận biết, vào một ngày lạ xa nào đó dần dà người ta có thể sống vào trong những câu trả lời.
Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Über die Geduld
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Man muss den Dingen die eigene, stille ungestörte Entwicklung lassen, die tief von innen kommt und durch nichts gedrängt oder beschleunigt werden kann, alles ist austragen – und dann gebären…
Reifen wie der Baum, der seine Säfte nicht drängt und getrost in den Stürmen des Frühlings steht, ohne Angst, dass dahinter kein Sommer kommen könnte.
Er kommt doch!
Aber er kommt nur zu den Geduldigen, die da sind, als ob die Ewigkeit vor ihnen läge, so sorglos, still und weit…
Man muss Geduld haben
Mit dem Ungelösten im Herzen, und versuchen, die Fragen selber lieb zu haben, wie verschlossene Stuben, und wie Bücher, die in einer sehr fremden Sprache geschrieben sind.
Es handelt sich darum, alles zu leben. Wenn man die Fragen lebt, lebt man vielleicht allmählich, ohne es zu merken, eines fremden Tages in die Antworten hinein.
Chú thích của người dịch: Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại. Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Gabriele Münter (1877-1962): Nữ họa sĩ Đức, đại diện quan trọng của phái Biểu hiện
Man mác nỗi buồn trên đầm phá: Bài thơ không đón mừng thành phố Cộng hòa quí tộc thường ra được biết tới như đích đến của nhớ mong, mà là điểm khởi nguồn cho nỗi nhớ nhà.
Có những thành phố mà tự cái tên ngân nga như một thanh âm của cổ tích, một tiếng vọng của tầm vóc và vẻ đẹp huyền thoại: Constantinople và Paris, Casablanca và Odessa, Alexandria và Venice. Ai đã đến nơi đây đều muốn dâng hiến mình cho nhiệm màu của những thời đại đã qua, muốn chiêm ngưỡng những chứng tích của vàng son xưa kia rực rỡ. Rằng trong bài thơ của Peter Huchel trọng tâm xoay quanh thứ khác hơn là niềm hứng thú ngao du khấp khởi những chờ đợi, riêng tiêu đề bài thơ tóm lại đã cho ta dự cảm thấy điều đó. Vàng tỏa rạng của con sư tử Markus óng ánh đằng sau lớp sương mù dày đặc nơi đây, từ tòa kiến trúc đá của lâu đài theo nước mưa nhỏ giọt.
Đối với Huchel, năm 1971 từ Muynich đi qua Vơ-ni-dơ tới Rome, sự tái ngộ với Cộng hòa quí tộc Serenissima (Cộng hòa Venice) với Viện văn hóa Società Europea di Cultura vốn ông là thành viên trực thuộc từ năm 1958, không là một sự trở về lòng không trĩu nặng. Vết cắt thật quá sâu, khi ông, sau khi bị bắt buộc thôi chức giám đốc biên tập tạp chí „Ý nghĩa và Hình thức“ và sau mười năm quản thúc cuối cùng được rời khỏi đất nước với viễn cảnh mờ mịt không được nhìn lại quê hương vùng Mark của mình. Nỗi nhớ nhung những cánh rừng thông, đồng đất và những cái hồ, nhưng mà cả nỗi nhớ những bạn bè bỏ lại đã đau đáu theo kèm ông và vợ ông tới tận thành phố Vĩnh cửu, nơi họ, với tư cách là khách của biệt thự Villa Massimo cùng nhau sống những tháng đầu tiên của cuôc đời mới. „ Vơ-ni-dơ và Rome đã ít nhiều quật ngã chúng tôi“, dạo tháng Năm Huchel viết trong thư gửi Clemens Graf Podewils (1). Tuy nhiên nếu như những bức thư của Walter (2) và Charlotte Janka gợi nhớ về những cuộc gặp gỡ chẳng bao giờ khả thi nữa, không tới, thỉ vẻ tươi vui của mùa hè nước Ý đột nhiên nhợt nhạt. „Các bạn không thể hình dung ra đâu, nỗi nhớ nhà rồi cắn rứt tôi, rồi sau đó tất cả đi vào quên lãng, thềm điện thành Rome, nơi chúng tôi ngồi trên đó, những chuyến xe ô tô với những người trẻ dễ mến khách …đi ra biển. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng tắm ở đó, cảm thấy khoan khoái, chỉ nghe thấy người nói tiếng Ý, trẻ con Ý la hét – nhưng mà cứ đến tối…“
Sự bồn chồn của nỗi nhớ quê nhà
Trong bài thơ, nỗi ưu tư mài sắc ánh nhìn, để cho ánh mắt lướt qua sự rạng rỡ rộng tầm, lái suy tư xuống những nền tảng mục nát mang nặng và chịu đựng tất thẩy và sự „kiên nhẫn lớn lao“ tuy nhiên không ai biết – hay không „ca tụng“, như Huchel từng viết trong một bản sớm trước đó, để lại rồi viết tiếp: Ở dưới sâu dòng nước/ Những con ốc/ Bên gáy của tảng đá,/ Cảm nhận những cội cành ứ bùn đang sống/ Dưới sức nặng của cái đẹp?“. Thành phố được ngưỡng mộ của những cái tên đại dương sinh ra an tọa trên những trụ dầm gỗ đẽo vuông vức cắm xuống lòng đất ẩm, trên thiên nhiên bị khuất phục. Nhưng mà thế, tự nhiên nơi Huchel chưa bao giờ là cảnh tượng thi vị chưa động chạm tới hay là miền lý tưởng của thiên thượng, mà luôn là khán trường của những can gián của con người. địa điểm của những nghiệm trải nguyên tố, đan kết với lịch sử và văn hóa không thể tách rời. Ai đã hiểu điều đó, sẽ biết giá cuộc sống ngấm ngầm lan tỏa trong gỗ rữa mục, nhìn thấy tòa kiến trúc nở hoa trong đá, con sư tử tạc chốt tạc vào trong kim loại lấp lánh. Và có thể nhận ra trên mặt nước sởn gai ốc của làn da. Kết cục trong thi ca, như vào những năm 30 Huchel đã viết trong lời „Tự phát giác“ phác thảo như một tuyên ngôn thi ca, vấn đề chính ở chỗ“ đến sâu hơn sau ngày nhật, khác với đến đằng sau các hiện tượng“.
Năm 1972, khi tập thơ „Những ngày tính đếm“ của ông cùng với bài thơ in lại ở đây ra mắt, nhiều nhà phê bình đã thất vọng. Họ đã ngóng chờ thơ lưu vong than trách và những phanh phui gói ghém trong những câu thơ, nhưng trước hết một sự thanh toán với nhà nước CHDC Đức. Mà thế đó người đàn ông đứng trong mưa không hề để tâm đến thứ đó. Trong nơi xa xôi ông nhìn thấy những con tàu han rỉ trong những xưởng đóng tàu mục nát, một hình tượng về sự tuần hoàn của cái đẹp và sự suy tàn. Ông đã sang phương Tây lòng không hề hy vọng, dạo đó Huchel nói trong một cuộc trò chuyện, rằng vào tuổi ông người ta không còn hợp để bứng đi trồng nơi khác nữa. Mà thế con phà đến, và trong sự chờ đợi chuyến sang bên kia lịch sử đã câm lặng và tự nhiên câm lặng. Câu trả lời là bài thơ. Và những bài thơ hay, Huchel tin, đứng cho riêng mình như một hòn đá, một cái cây hay một vì sao.
Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Vơ-ni-dơ trong mưa
Peter Huchel (1903-1981)
Trong sương mù còn óng kim vàng của sư tử, rỏ giọt xuống từ tòa đá. Những tên người, sinh ra cùng đại dương, Ai viết vào ánh sáng đẫm muối? Chẳng ai biết lòng nhẫn nại lớn lao của những cọc dầm.
Chờ con phà trong mưa trút tầm, đánh bọt sủi sởn gai vào nước, tôi nhìn sang bờ kia những con tàu han rỉ của quần đảo Giudecca.
Những bản đồ hàng hải lặng câm. Rồi vỏ ốc lặng câm trên gáy của tảng đá.
Noch im Nebel leuchtet das Gold des Löwen, das steinerne Laubwerk tropft. Namen, meergeboren, wer schrieb sie ins salzige Licht? Keiner nennt die große Geduld der Pfähle.
Auf die Fähre wartend im Regen, der Poren ins Wasser schlägt, blick ich hinüber zu den rostigen Schiffen der Giudecca.
Die Seekarten schweigen. Es schweigt die Muschel am Nacken des Steins.
Chú thích của người dịch:
Matthias Weichelt, sinh năm 1971: Tổng biên tập của tờ "Sinn und Form", sống tại Berlin.
Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên. Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin 1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna. 1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: "Die literarische Welt", "Das Innere Reich", "Die Kolonne" và "Vossische Zeitung". 1932: Giải thưởng thơ của tạp chí „Kolone“ cho tập thơ "Der Knabenteich" (Hồ của những cậu trai) 1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal. 1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức. 1941-1945: Nghĩa vụ quân sự, phục dịch trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam sô-viết. 1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật. 1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập „Những bài thơ“. 1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng „Sinn und Form“ (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin. 1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. Từ 1956 đại diện DDR tại Biennale thơ ca quốc tế. 1953: Bị o ép từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải làm ngơ. 1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống. 1962: Từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“ 1963: Tập thơ „Chausseen, Chausseen“ xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane-Preis của Tây Berlin. 1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fotane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín. 1965: Không được rời DDR nhận chức thỉnh giảng về thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen. 1971: Nhờ có sự can thiệp của Viện hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ „Những ngày tính đếm“. 1976 – 1979: Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Jacob-Burckhardt-Preis und dem Eichendorff-Preis). 1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện hàn lâm thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông. Peter Huchel mất năm 1981.
(1) Clemens Graf Podewils (1905-1978): Nhà báo, nhà văn Đức. (2) Walter Janka (1914-1994): Làm công tác biên kịch và xuất bản, giám đốc xưởng phim DEFA. Ông được biết tới bởi những hoạt động bất đồng chính kiến, phiên tòa dàn dựng xử âm mưu phản cách mạng năm 1956, sự tù đầy tại CHDC Đức, được ông thuật lại trong tác phẩm" Những mắc mớ với chân lý" (Schwierigkeiten mit der Wahrheit)
Tranh của Auguste Renoire (1841-1919): Họa sĩ Pháp, đại diện quan trọng của phái Ấn tượng (Impressionism).
Trong sương mù còn óng kim vàng của sư tử, rỏ giọt xuống từ tòa đá. Những tên người, sinh ra cùng đại dương, Ai viết vào ánh sáng đẫm muối? Chẳng ai biết lòng nhẫn nại lớn lao của những cọc dầm.
Chờ con phà trong mưa trút tầm, đánh bọt sủi sởn gai vào nước, tôi nhìn sang bờ kia những con tàu han rỉ của quần đảo Giudecca.
Những bản đồ hàng hải lặng câm. Rồi vỏ ốc lặng câm trên gáy của tảng đá.
Noch im Nebel leuchtet das Gold des Löwen, das steinerne Laubwerk tropft. Namen, meergeboren, wer schrieb sie ins salzige Licht? Keiner nennt die große Geduld der Pfähle.
Auf die Fähre wartend im Regen, der Poren ins Wasser schlägt, blick ich hinüber zu den rostigen Schiffen der Giudecca.
Die Seekarten schweigen. Es schweigt die Muschel am Nacken des Steins.
Chú thích của người dịch: Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên. Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin 1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna. 1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: "Die literarische Welt", "Das Innere Reich", "Die Kolonne" và "Vossische Zeitung". 1932: Giải thưởng thơ của tạp chí „Kolone“ cho tập thơ "Der Knabenteich" (Hồ của những cậu trai) 1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal. 1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức. 1941-1945: Nghĩa vụ quân sự, phục dịch trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam sô-viết. 1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật. 1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập „Những bài thơ“. 1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng „Sinn und Form“ (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin. 1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. Từ 1956 đại diện DDR tại Biennale thơ ca quốc tế. 1953: Bị o ép từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải làm ngơ. 1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống. 1962: Từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“ 1963: Tập thơ „Chausseen, Chausseen“ xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane-Preis của Tây Berlin. 1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fotane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín. 1965: Không được rời DDR nhận chức thỉnh giảng về thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen. 1971: Nhờ có sự can thiệp của Viện hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ „Những ngày tính đếm“. 1976 – 1979 Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Jacob-Burckhardt-Preis und dem Eichendorff-Preis). 1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện hàn lâm thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông. Peter Huchel mất năm 1981.
Tranh của Claude Monet (1840-1926): Họa sĩ Pháp, đại diện quan trọng của phái Ấn tượng (Impressionism).
Sự cô đơn tuyệt đối – chờn vờn trong những ảnh hình và thành ngữ bay bướm và trang nhã: nào ở đâu người ta còn có thể đọc được điều này như thế nữa?
Đã có tới ngàn lần huy động: sự thêu dệt một cách truyền thống cho tự nhiên theo khuôn mẫu lãng mạn. Và nếu như người ta tính cả cái tiêu đề bài thơ vào đây trong truyền thống đào luyện của thế kỷ 19. Tôi chợt nghĩ tới những bài sonnet về Vơ-ni-dơ của Platten(1), tôi nhớ tới bài thơ „ Trên Dòng Kênh Lớn – Auf dem Canal Grande“ của C.F. Meyer (2). Nhưng chẳng có gì còn đọng lại ở bài thơ này từ cái ý nghĩa tầng sâu mang tính biểu tượng đó (rất đặc trưng cho những năm tám mươi), thứ để cho tiến trình xảy ra trong thơ chỉ có giá trị như không sát thực, mà trong vai trò là phương tiện của nhận thức, thì cả cuộc sống của con người cũng vậy. Phải thế chăng sự chủ thể hóa một cách lãng mạn?
Cái nhìn nhậy bén, những viễn cảnh của cái tôi trữ tình, từ đó phối dựng nên hoạt cảnh – cái chất đồ vật mau đi mất hút, cái gì sẽ quyết định đây?
Ở đâu là tình cảm, được khêu lên bởi các sự vật mà chúng liên hệ tới? Những người giải luận chương trình của thời đại đòi hỏi: hãy gọi tên đích xác các sự vật. Nietzsche nói về „miền run rẩy“. Tính chất lìa ra tự lập, không còn phục vụ lâu hơn nữa đối tượng, từ chối sự đơn nghĩa. Và cái ẩn dụ này liên hệ tới những chi? „Trào sôi lên những giọt vàng kim“- Thuyền gondela, ánh sáng hay là âm nhạc? Theo một cách thức đáng ngạc nhiên, cái ẩn dụ đó có vẻ bị kéo căng ra, không thể định vị, tàn phá mối liên kết thực tại trong tính nhân tạo đầy tham vọng của nó. Bù vào đó sáng tạo những liên tưởng: Không khí, xúc tác, ấn tượng: „chuyếnh choáng bơi…“ thế giới lấp loáng vỡ vụn, hiện ra như một phóng tưởng của cái Tôi, của những cảm nhận. Sự chủ thể hóa của Nietzsche đi xa hơn nhiều so với các nhà lãng mạn.
Cái Tôi lấp đầy tất cả, tất cả được lập luận trong nó: „ run rẩy trước lòng dạ xốn xang“ – đó không còn là một sự diễn giải chủ quan của thế giới, đó là thế giới của cái Tôi, cái Tôi là Thế giới. Không còn điểm liên hệ nữa, với những trường liên hệ mọi liên kết đều sụp đổ. Chủ thể tuyệt đối – cô đơn tuyệt đối. „ Quá cô đơn tôi mọc và cao hơn“, ta còn đọc được ở bài khác (Thông và Chớp). Và „Tôi mọc cao vượt trên người và thú; /Và tôi nói – chẳng ai nói với tôi“.
Với những phương tiện tiết kiệm nhất Nietzsche đã tạo ra một sự gia cường cực điểm. Hoạt cảnh được tạo dựng từ ít ỏi ảnh hình ám ảnh của khổ thơ thứ nhất, sự dạo đàn dây „thầm kín“ của tâm hồn, rót đầy linh hồn trỏ hướng tới một khán giả. Và nó cũng đả động tới một thính giả trong câu hỏi được điểm điểm xuyết một cách trào lộng ở cuối bài.
Max Kommerell (3) đã gọi Nietzsche là kẻ phát minh ra „kịch nghệ siêu nghiệm„. Một cách diễn đạt chính xác vô cùng. Nietzsche đã dẫn nhập cái tôi trữ tình vào một vai trò không được biết đến cho tới thời điểm đó: Bởi vì sự cô đơn ông kiến tạo nên bao trùm đến mức nó không còn cho phép có khán giả nữa, tới mức cái Tôi thực hiện cả hai chức năng, nói thẳng ra là người ca và người nghe. Và bất cứ sự biểu lộ nào của ông cũng đồng thời là sự tự phác thảo, tự trình bày, tự quan sát, tự diễn giải và tự thoại.
Nguồn : Zu einsam wuchs ich und zu hoch - Frankfurter Anthologie, Insel Verlag Frankfurt am Main 1982, Zweite Auflage, Fünfter Band.
Vơ-ni-dơ
Friedrich Nietzsche (1844-1900)
Mới đây thôi tôi đứng Trên chiếc cầu, trong đêm tối màu nâu. Tiếng hát vọng về từ chốn xa đâu: Cuộn những giọt kim vàng Trào qua miền đang run lên, lai láng. Âm nhạc, thuyền gondela, ánh sáng Chuyếnh choáng bơi vào tảng sáng ban mai…
Linh hồn tôi, một bản dạo đàn dây, Thầm hát cho mình, cảm bồi hồi kín đáo, Một bài hát chèo thuyền hòa tấu, Run rẩy nghe lòng dạ xốn xang - Có ai nghe lắng tiếng hồn chăng?...
An der Brücke stand jüngst ich in brauner Nacht. Fernher kam Gesang: goldener Tropfen quoll′s über die zitternde Fläche weg. Gondeln, Lichter, Musik - trunken schwamm′s in die Dämmerung hinaus...
Meine Seele, ein Saitenspiel, sang sich, unsichtbar berührt, heimlich ein Gondellied dazu, zitternd von bunter Seligkeit. - Hörte Jemand ihr zu?...
Chú thích của người dịch:
(1) August Graf von Platen-Hallermünde (1796-1835): Nhà thơ Đức, tên của một giải thưởng văn chương Bavaria, được biết tới bởi những bài sonnets về Venice về cái đẹp và sự suy tàn.
(2) Conrad Ferdinand Meyer (1825-1898): Nhà thơ, nhà văn của chủ nghĩa Hiện thực người Thụy sĩ.
(3) Max Kommerell (1902-1944): Nhà văn, dịch giả và nhà biên soạn văn học sử.
Christa Melchinger, sinh năm 1943: Nhà báo, ký giả. Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 –1900): Triết gia, nhà văn, nhà thơ Phổ (Đức). Là giáo sư ngành ngữ văn học, ông viết nhiều bài phê bình về tôn giáo, đạo đức, các vấn đề văn hóa đương thời, và triết học. Các tác phẩm của Nietzsche nổi bật với phong cách viết của ông, thường mang tính cách ngôn (Aphorism) và nhiều nghịch lý hơn là mức độ thông thường của khảo luận triết học. Suốt trong cuộc đời Nietzsche không được đánh giá cao bởi những người đương thời, nhưng đầu thế kỉ 20, ông đã được giới trí thức ở Đức, Pháp và Anh đánh giá lại và công nhận. Ông bắt đầu bị mang tiếng xấu tiếng khi Đảng Quốc Xã của Đức tôn thờ ông như một bậc tiền bối tư tưởng, mặc dù Nietzsche có quan điểm phản đối Chủ nghĩa Bài Do Thái và Chủ nghĩa Dân tộc Đức. Sau Thế chiến thứ hai, triết gia Walter Kaufmann bắt đầu một cố gắng bền bỉ nhằm khôi phục lại danh tiếng của Nietzsche trong các nước nói tiếng Anh, và vào nửa sau của thế kỉ 20, Friedrich Nietzsche đã được xem là một nhân vật quan trọng có ảnh hưởng lớn trong triết học hiện đại. Trực tiếp và gián tiếp (thông qua Martin Heidegger), Nietzsche đã ảnh hưởng đến thuyết Hiện sinh (Existentialism), chủ nghĩa Hậu hiện đại (Postmodernism), Phân tâm học (Psychoanalysis) và nhiều tư tưởng phái sinh.
Tranh của Auguste Renoire (1841-1919): Họa sĩ Pháp, đại diện quan trọng của phái Ấn tượng (Impressionism).