Nàng hồ như không có sử tích, không sự kiện nào năm hết năm sang,- Bỗng một lần choán ngợp ánh rỡ ràng... Tình yêu đến hay vừa điều chi đó.
Rồi nàng chợt thấy e dè băng tan rỏ, trước nhà nàng bỗng đọng một vũng ao… Vẻ như trong mơ sự đó khởi mào và tàn lụi tựa như một số phận.
XX
Người ta nhận ra mùa thu tới. Ngày mau tận chết dần trong máu huyết của riêng mình. Trong ánh tà chỉ bông hoa cháy lung linh trên chiếc mũ nhỏ xinh khép nép.
Đeo chiếc găng tay cũ mòn, nàng vuốt bàn tay tôi âu yếm và khẽ khàng,- Không ai trong con ngõ ngoài tôi và nàng Nàng thảng thốt: Anh đi? - „ Anh đi đó“
Nàng đứng đây, mái đầu vùi sắc đỏ của chia ly vào áo khoác của tôi… Trên mũ bông hồng nghiêng đầu ánh đỏ , và chiều đêm mệt mỏi mỉm cười.
SIE hatte keinerlei Geschichte, ereignislos ging Jahr um Jahr - auf einmal kams mit lauter Lichte ... die Liebe oder was das war.
Dann plötzlich sah sie's bang zerrinnen, da liegt ein Teich vor ihrem Haus ... So wie im Traum scheint's zu beginnen, und wie ein Schicksal geht es aus.
XX
MAN merkte: der Herbst kam. Der Tag war schnell erstorben im eigenen Blute. Im Zwielicht nur glimmte die Blume noch grell auf dem kleinen verborgenen Hute.
Mit ihrem zerschlissenen Handschuh strich sie die Hand mir schmeichelnd und leise. - Kein Mensch in der Gasse als sie und ich ... Und sie bangte: Du reisest? "Ich reise."
Da stand sie, das Köpfchen voll Abschiedsrot In den Stoff meines Mantels vergrabend ... Vom Hütchen nickte die Rose rot, und es lächelte müde der Abend.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Amedeo Clemente Modigliani (1984-1920) Họa sĩ, điêu khắc gia người Ý.
Sau một hạnh phúc tâm hồn tôi rạo rực nỗi cuồng sự kỳ diệu ngắn ngủi, ngu si… Trong róc rách nguồn suối và thông thầm thì ấy tôi nghe điều đó đang gần lại…
Và nếu từ những ngọn đồi hồng tía đang viền dải, con thuyền bạc bơi vào cõi xanh mịt mù.- Rồi dưới những cây nở bông trĩu bóng âm u tôi nhìn thấy điều đó đang gần sát.
Trong áo trắng; như người tôi yêu, người chết ngày chúa nhật cùng tôi bước qua khóm bụi bông trong trái tim một đóa hoa đỏ nọ, nàng cũng mang thứ đó hay không?
XVII
Ta đi dưới hàng dẻ thu muôn màu sắc Khóc đỏ mắt cả hai bởi đau đớn chia ly „Nào anh yêu ta cùng tìm hoa đi!“ Tôi sợ hãi nói: „ Hoa kia đã chết“
Lời tôi nức nở – một ngôi sao nhợt đứng trên tầng xanh ngây thơ mỉm cười. Hấp hối ngày đi tới các đức cha, rã rời và một con quạ gáy xám kêu ngoài xa vọng.-
XVIII
Trong mùa xuân hay trong giấc mộng anh đã gặp em dạo đó, thủa xưa, và giờ đây ta cùng nhau bước qua ngày thu, và em nắm chặt tay anh và khóc.
Em khóc có vì những đám mây đuổi lướt? Hay lá rơi đỏ như máu? Chẳng hồ như. Anh cảm thấy, một lần em hạnh phúc trong mùa xuân hay ở giấc mơ…
Nach einem Glück ist meine Seele lüstern, nach einem kurzen, dummen Wunderwahn ... Im Quellenquirlen und im Föhrenflüstern da hör ich's nahn ...
Und wenn von Hügeln, die sich purpurn säumen, in bleiche Bläue schwimmt der Silberkahn, - dann unter schattenschweren Blütenbäumen seh ich es nahn.
In weissem Kleid; so wie das Lieb, das tote, am Sonntag mit mir ging durch Staub und Strauch, am Herzen jene Blume nur, die rote, trug es die auch? ...
XVII
WIR gingen unter herbstlich bunten Buchen, vom Abschiedsweh die Augen beide rot ... "Mein Liebling, komm, wir wollen Blumen suchen," Ich sagte bang: "Die sind schon tot."
Mein Wort war lauter Weinen. - In den Äthern stand kindisch lächelnd schon ein blasser Stern. Der matte Tag ging sterbend zu den Vätern, und eine Dohle schrie von fern. -
XVIII
Im Frühling oder im Traume bin ich dir begegnet, einst, und jetzt gehn wir zusamm durch den Herbsttag, und du drückst mir die Hand und weinst.
Weinst du ob der jagenden Wolken? Ob der blutroten Blätter? Kaum. Ich fühl es: du warst einmal glücklich im Frühling oder im Traum ...
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Julie Wolfthorn (1864-1944): Nữ họa sĩ Đức, gương mặt nổi bật của phái Hiện đại. Bà mất trong trại tập trung. Trừ các tác phẩm còn lại trong bảo tàng, tác phẩm đồ sộ của bà một thời gian dài bị coi như mất tích. Năm 2000, khi nhiều tranh được tìm thấy , nữ họa sĩ được phát hiện lại và trả về vị trí cao trọng trong nền nghệ thuật tạo hình của Đức.
Hoa tử đinh hương trong vườn chiếu ánh chiều đầy dâng từ khúc nguyện Đức Bà,- cũng lúc vừa đôi ta bước chia xa trong buồn rầu và ray rứt.
Mặt trời trong những giấc mơ hầm hập sốt đã chết sau những dốc xám mờ, và sau những khóm bông cũng lụi tắt bây giờ tà áo em màu trắng.
Anh nhìn theo chấm sáng dần khuất bóng và cầm cập run như đứa trẻ nhát gan đã nhìn hồi lâu vào ánh chói chang: Giờ đây anh mù mắt?
XV
Thường trong anh em hiện ra như trẻ con, một cô nhóc, - anh cảm thấy mình già tuổi và nghiêm trang,- nếu chỉ tiếng cười trong sáng của em vang trong lòng anh như chuông lảnh lót.
Thì trong nỗi ngạc nhiên lớn của con nít đôi mắt em mở to, nóng và sâu,- anh muốn hôn em và thì thào những cổ tích đẹp nhất đời anh biết.
Es leuchteten im Garten die Syringen, von einem Ave war der Abend voll, - da war es, dass wir voreinander gingen in Gram und Groll.
Die Sonne war in heissen Fieberträumen gestorben hinter grauen Hängen weit, und jetzt verglomm auch hinter Blütenbäumen dein weisses Kleid.
Ich sah den Schimmer nach und nach vergehen und bangte bebend wie ein furchtsam Kind, das lange in ein helles Licht gesehen: Bin ich jetzt blind? -
XV
Oft scheinst du mir ein Kind, ein kleines, - dann fühl ich mich so ernst und alt, - wenn nur ganz leis dein glockenreines Gelächter in mir widerhallt.
Wenn dann in grossem Kinderstaunen dein Auge aufgeht, tief und heiss, - möcht ich dich küssen und dir raunen die schönsten Märchen, die ich weiss.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Julie Wolfthorn (1864-1944): Nữ họa sĩ Đức, gương mặt nổi bật của phái Hiện đại. Bà mất trong trại tập trung. Trừ các tác phẩm còn lại trong bảo tàng, tác phẩm đồ sộ của bà một thời gian dài bị coi như mất tích. Năm 2000, khi nhiều tranh được tìm thấy , nữ họa sĩ được phát hiện lại và trả về vị trí cao trọng trong nền nghệ thuật tạo hình của Đức.
Thủa anh còn là cậu trai. Anh biết, này đây nhé: Hôm nay bà cô Olga tới nhà thăm. Rồi anh thấy em trên đường sỏi lấp loáng lại gần, áo bó sát người, chiếc áo màu phơn phớt.
Rồi họ ngồi quanh bàn theo dưới trên hàng lớp và nếm náp ăn vừa vặn môi mềm; vừa như cốc của anh chạm vào cốc em, chợt xuyên nhói lòng anh một vết nứt.
Ngạc nhiên anh nhìn vào mặt em và quên mất nhập mình vào cuộc tán gẫu ồn ào, bởi sâu trong cổ họng khát, nghẹn ngào nức nở một nỗi niềm muốn khóc.
Mình đi trong công viên- Em nói về hạnh phúc Và em đã hôn môi anh lâu một hồi, Và anh trả lại em những nụ hôn nóng sốt Lên vầng trán em, lên má và môi.
Và rồi thế em nhắm nghiền đôi mắt, mù mờ thăm dò nỗi ngất ngây… Và trong đáy lòng anh dự cảm: chẳng hay em những muốn chết đi vì tội lỗi…
XII
Đêm khoác áo bằng bạc tia lóng lánh Rắc một vốc đầy những giấc mơ Và rót vào với sự say sưa Tới tràn đầy linh hồn anh sâu lắng.
Như con trẻ nhìn đêm Thiên Chúa Giáng đầy những hạt dẻ vàng và ánh chói lòa,- anh nhìn em qua đêm tháng Năm rảo bước và đã hôn hết thảy những bông hoa.
Ich war noch ein Knabe. Ich weiss, es hiess: Heut kommt Base Olga zu Gaste. Dann sah ich dich nahn auf dem schimmernden Kies, ins Kleidchen gepresst, ins verblasste.
Bei Tisch sass man später nach Ordnung und Rang und frischte sich mässig die Kehle; und wie mein Glas an das deine klang, da ging mir ein Riss durch die Seele.
Ich sah dir erstaunt ins Gesicht und vergass mich dem Plaudern der andern zu einen, denn tief im trockenen Halse sass mir würgend ein wimmerndes Weinen.
Wir gingen im Parke. - Du sprachst vom Glück und küsstest die Lippen mir lange, und ich gab dir fiebernde Küsse zurück auf die Stirne, den Mund und die Wange.
Und da machtest du leise die Augen zu, die Wonne blind zu ergründen ... Und mir ahnte im Herzen: da wärest du am liebsten gestorben vor Sünden ...
XII
Die Nacht im Silberfunkenkleid streut Träume eine Handvoll, die füllen mir mit Trunkenheit die tiefe Seele randvoll.
Wie Kinder eine Weihnacht sehn voll Glanz und goldnen Nüssen, - seh ich dich durch die Mainacht gehn und alle Blumen küssen.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Edouard Vuillard (1868-1940): Họa sĩ Pháp thuộc trào Hậu Ấn Tượng, thành viên của nhóm họa Les Nabis.
Rồi ngày dần chết. Cánh rừng huyền nhiệm, và dưới chân bò tót tiên khách lai máu ròng, những cây thông cao, gốc chen gốc, rực hồng, vừa một cơn gió – và mùi nồng nã tới.
Em mòn mỏi trên con đường ta xa vợi, anh khẽ gọi tên em tiếng ngọt ngào: Với sức vóc lâng lâng hoang dại, từ mầm huệ trắng của tim em vút cao hoa huệ lửa của lòng say đắm.
Chiều ráng đỏ - và miệng em son đỏ thắm, như môi anh tìm thấy nóng bỏng khát thèm, và những ngọn lửa ấy đốt lòng ta phiêu hốt, bén rân rân vào những áo tị hiềm… Rừng im ắng và ngày đã chết.
Nhưng với ta Đấng Cứu Rỗi đã phục sinh, hơn hết với ngày nhật chết đi sự ghen tị, và rầy rà. Vầng trăng lớn đến đậu ngọn đồi ta, hạnh phúc êm bước từ con thuyền trắng.
Schon starb der Tag. Der Wald war zauberhaft, und unter Farren bluteten Zyklamen, die hohen Tannen glühten, Schaft bei Schaft, es war ein Wind, - und schwere Düfte kamen.
Du warst von unserm weiten Weg erschlafft, ich sagte leise deinen süssen Namen: Da bohrte sich mit wonnewilder Kraft aus deines Herzens weissem Liliensamen die Feuerlilie der Leidenschaft.
Rot war der Abend - und dein Mund so rot, wie meine Lippen sehnsuchtheiss ihn fanden, und jene Flamen, die uns jäh durchloht, sie leckten an den neidischen Gewanden ... Der Wald war stille, und der Tag war tot.
Uns aber war der Heiland auferstanden, und mit dem Tage starben Neid und Not. Der Mond kam gross an unsern Hügeln landen, und leise stieg das Glück aus weissem Boot
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Lita Cabellut (sinh năm 1961): Nữ họa sĩ Tây Ban Nha đương đại.
Đó là một biển cả đầy ánh sáng, viền ôm quanh đôi mắt người yêu, nếu như, trào dâng trên lớp sóng triều của gương mặt mơ, hồn trinh trắng.
Rồi tôi chấn rung trước ầm ầm chói sáng như một đứa bé chạy khựng lại, trước vẻ nguy nga của căn phòng bày cây thông Thiên Chúa không ồn ào cửa hai cánh mở ra.
Es ist ein Weltmeer voller Lichte, das der Geliebten Aug umschliesst, wenn von der Flut der Traumgesichte die keusche Seele überfliesst.
Dann beb ich vor der Wucht des Schimmers so wie ein Kind, das stockt im Lauf, geht vor der Pracht des Christbaumzimmers die Flügeltüre lautlos auf.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Salvador Dali (1904-1989): Họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà văn người Tây Ban Nha. Là đại diện của phái siêu thực ông thuộc hàng những họa sĩ trứ danh của thế kỷ 20.
Thoắt cô bé hôm nay sang mười sáu Nàng tìm thấy bốn cánh đậu chẽ ba… (1) Như đám trai choai chen lấn ngoài xa: Hoa bồ công anh ánh vàng mái tóc Độc cần nước mở cánh sao săn sóc.
Ngồi lì đó sau cây độc cần nước Vị thần ruộng to bè, độc gã trai tân. Giờ đây cậu trộm ngó cô bé tới gần Và cười và lăn lộn qua đồng trống Của làn gió đang trào dâng sóng...
IX
Dưới giàn nho tôi mơ sâu giấc Cùng cô bé tóc vàng của tôi Bàn tay nàng ngọc ngà run bắn Nóng trong tay tôi siết bồi hồi.
Trong phản xạ ánh sáng đi mất hút Như một con sóc vàng chuyền cây, Và quệt bóng đổ tím vào tà áo Màu trắng trong cả vết mực dây.
Trong ngực ta, tuyết tràn hạnh phúc, Lắng sự im tiếng nắng kim vàng. Đâu đến đây trong áo bằng gấm vóc Một con ong réo rắt phước ân ban…
Die Liese wird heute just sechzehn Jahr. Sie findet im Klee einen Vierling ... Fern drängt sichs wie eine Bubenschar: die Löwenzähne mit blondem Haar betreut vom sternigen Schierling.
Dort hockt hinterm Schierling der Riesenpan, der strotzige, lose Geselle. Jetzt sieht er verstohlen die Liese nahn und lacht und wälzt durch den Wiesenplan des Windes wallende Welle ...
IX
Ich träume tief im Weingerank mit meiner blonden Kleinen; es bebt ihr Händchen, elfenschlank, im heissen Zwang der meinen.
So wie ein gelbes Eichhorn huscht das Licht hin im Reflexe, und violetter Schatten tuscht ins weisse Kleid ihr Kleckse.
In unsrer Brust liegt glückverschneit goldsonniges Verstummen. Da kommt in seinem Sammetkleid ein Hummel Segen summen ...
Chú thích của người dịch:
(1) Đậu chẽ ba, còn có tên xạ trục thảo, lá gồm 3 cánh. Tìm được lá 4 cánh hiếm khi, người ta coi như gặp điềm may, gặp phúc
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Alfred Stevens (1823-1906): Họa sĩ người Bỉ.