Ánh trăng - Paul Klee (1879-1940) họa sĩ, nhà đồ họa Đức |
Thế còn phổ nhạc? Huy động chính sức mạnh của nhạc để phổ thơ khả dĩ hơn. Trong
những ca phối hợp thành công, nhạc quyến hồn thơ bay cao, hoặc nhạc dựa vào thơ
làm nên một tác phẩm khác. Nhiều người cho rằng Phạm Duy phổ bài thơ Ngậm Ngùi
của Huy Cận thật hay. Ít ra không dở, song tôi biết bài thơ trước bài nhạc phổ,
tôi muốn giữ bài thơ trong tâm tưởng như buổi ban đầu trước khi nghe bài hát
phổ thơ. Trong rất nhiều trường hợp mau mắn phổ nhạc người ta đã làm việc phục
chế vụng về một bức tranh cũ dưới lớp bụi thời gian, kết cấu của sắc mầu tranh
vẫn nguyên còn và sức sáng vẫn hoàn toàn chói lọi.
Lan man như vậy để thú thực, tôi thích nghe đọc thơ hơn, hơn nữa là thơ qua chính giọng đọc của tác giả. Hẳn phải có bàn tay của bà mụ sắp xếp, mỗi nhà thơ sinh ra có một cơ quan phát thanh âm riêng. Họ ca tiết điệu riêng của họ. Tư chất tác giả và giọng thơ hiện nguyên trong giọng đọc, tôi đinh ninh như vậy.
Tôi không quên giọng đọc Hoàng Cầm. Nói lên nguyện vọng muốn nghe ông đọc, người hát rong về già cất tiếng có âm sắc sáng rõ, hơi ngân một chút, tiếng nói não nùng và tha thiết ấy từ đâu?
...„ Trên núi Thiên Thai
trong chùa Bút Tháp
giữa huyện Lang Tài...“
Câu thơ không ý nghĩa kết nối những địa danh thôi. Nhưng mấy ai trên đời nghe ra cái cấu trúc âm thanh nao lòng vang chuông sắp sửa hồi gióng giả.
Có khi vì bị lôi cuốn bởi vần điệu, người ta phổ cái giọng điệu nông cạn của riêng mình vào. Các nhà thơ thông tấn sản xuất ra hò vè, những nhà thơ phản thông tấn không khác mấy chế tác ra những mớ xủng xoảng hỗn độn, mau tắt đi chỉ để lại một âm rè yếu ớt.
Tức là thơ có cái gì đó quyến rũ bởi nhạc riêng của nó. Vần mới chỉ là một thành tố trong dòng âm thanh. Nhiều nhà thơ hiện đại viết thơ không vần thậm chí phản vận thì đúng rồi. Lắng nghe kỹ ở những cây bút bản lĩnh nhất, độc đáo nhất đều có dòng nhạc nội sinh riêng vận dòng tuôn chảy. Nhạc tự tại trong lòng thơ.
Ta hãy cùng đọc bằng giọng mộc bài thơ Gái buồn.
“Bờ sau hang núi” là một câu ước lệ về không gian, rất bình thường và tự nhiên như thốt lên từ miệng người sơn nữ vừa được hỏi đường. Nhưng mạch thơ tự nhiên chững lại ở từ “núi” vị trí thứ tư, như có luồng gió thổi đến đây, tan biến vào một cảnh giới hiển lộ. Phong cảnh ước lệ „ lá xanh lá đỏ „, bình thường ra hai màu nguyên tố đối nhau trong tiếng Việt gợi những ngữ nghĩa thô và sống, bỗng chốc lan chuyển vì “cánh chim trời vòi või” xa xăm và cô liêu chợt sát sạt gần buông „cánh mỏng theo ngày“. Cánh chim pha loãng màu nguyên tố. Đấy là nghệ thuật pha màu của bút pháp thuốc nước, nghệ thuật phôi pha: chỉ một cánh chim vòi või của nhớ nhung pha trộn sắc vào một không gian mênh mông chẳng mấy chốc điệp trùng quan ải. Vẫn trên nền phong cảnh trung du gió vời vợi thổi ở miền Trung Phước quê hương ông. Từ cái ngày đó cho đến mùa sau dài bao lâu chẳng biết. Ở đấy vẫn chảy dòng Nguyên Tuyền có trước tạo vật, thời Hữu Thể còn chưa tha hóa, nghe rạc rời một nỗi đi qua đã mất, xiết bao nỗi nhớ nhung: “ Ngày sẽ về, sẽ nhìn Xuân Tinh Hoa thắm lại. Ngày sẽ về bên dòng bất tuyệt sơn tuyền sẽ theo dõi bóng trời đi”. (1)
Trong nao nao tiếng nhạc, cảnh giới đã thêm phần siêu hiện ban ngày trộn với trăng sương của màn đêm, và còn quyến rũ nữa. Quyến rũ sự trở về. Nhưng sự trở về này trong vẫy gọi của hoàng hôn Cố Quán nơi người lữ, là ông chăng, từng ra đi sương đồng ngậm bóng. Cùng với đó cái tôi trữ tình, rất kín tiếng thể hiện qua “ em về”, nhắn nhủ Tinh Thể tự xa xưa ra đời từ giòng khe (2), bước ra, một lần ra đi và đã từng lạc bước.
"Ngày sau chỗ ấy", đến đó dài lâu hơn cả "mùa sau" là ngày mai hậu, và phong cảnh cuối cùng ở khổ thứ ba là một tâm cảnh buồn mông lung trong hoàng hôn nhớ thương Cố Quận. Bài thơ “Gái buồn” kết dựng trong không gian và thời gian bàng bạc màu triết hiện sinh, xứng đáng là một kiệt tác mênh mang âm hưởng bất tận nhạc điệu của mưa nguồn chớp bể.
Lan man như vậy để thú thực, tôi thích nghe đọc thơ hơn, hơn nữa là thơ qua chính giọng đọc của tác giả. Hẳn phải có bàn tay của bà mụ sắp xếp, mỗi nhà thơ sinh ra có một cơ quan phát thanh âm riêng. Họ ca tiết điệu riêng của họ. Tư chất tác giả và giọng thơ hiện nguyên trong giọng đọc, tôi đinh ninh như vậy.
Tôi không quên giọng đọc Hoàng Cầm. Nói lên nguyện vọng muốn nghe ông đọc, người hát rong về già cất tiếng có âm sắc sáng rõ, hơi ngân một chút, tiếng nói não nùng và tha thiết ấy từ đâu?
...„ Trên núi Thiên Thai
trong chùa Bút Tháp
giữa huyện Lang Tài...“
Câu thơ không ý nghĩa kết nối những địa danh thôi. Nhưng mấy ai trên đời nghe ra cái cấu trúc âm thanh nao lòng vang chuông sắp sửa hồi gióng giả.
Có khi vì bị lôi cuốn bởi vần điệu, người ta phổ cái giọng điệu nông cạn của riêng mình vào. Các nhà thơ thông tấn sản xuất ra hò vè, những nhà thơ phản thông tấn không khác mấy chế tác ra những mớ xủng xoảng hỗn độn, mau tắt đi chỉ để lại một âm rè yếu ớt.
Tức là thơ có cái gì đó quyến rũ bởi nhạc riêng của nó. Vần mới chỉ là một thành tố trong dòng âm thanh. Nhiều nhà thơ hiện đại viết thơ không vần thậm chí phản vận thì đúng rồi. Lắng nghe kỹ ở những cây bút bản lĩnh nhất, độc đáo nhất đều có dòng nhạc nội sinh riêng vận dòng tuôn chảy. Nhạc tự tại trong lòng thơ.
Ta hãy cùng đọc bằng giọng mộc bài thơ Gái buồn.
“Bờ sau hang núi” là một câu ước lệ về không gian, rất bình thường và tự nhiên như thốt lên từ miệng người sơn nữ vừa được hỏi đường. Nhưng mạch thơ tự nhiên chững lại ở từ “núi” vị trí thứ tư, như có luồng gió thổi đến đây, tan biến vào một cảnh giới hiển lộ. Phong cảnh ước lệ „ lá xanh lá đỏ „, bình thường ra hai màu nguyên tố đối nhau trong tiếng Việt gợi những ngữ nghĩa thô và sống, bỗng chốc lan chuyển vì “cánh chim trời vòi või” xa xăm và cô liêu chợt sát sạt gần buông „cánh mỏng theo ngày“. Cánh chim pha loãng màu nguyên tố. Đấy là nghệ thuật pha màu của bút pháp thuốc nước, nghệ thuật phôi pha: chỉ một cánh chim vòi või của nhớ nhung pha trộn sắc vào một không gian mênh mông chẳng mấy chốc điệp trùng quan ải. Vẫn trên nền phong cảnh trung du gió vời vợi thổi ở miền Trung Phước quê hương ông. Từ cái ngày đó cho đến mùa sau dài bao lâu chẳng biết. Ở đấy vẫn chảy dòng Nguyên Tuyền có trước tạo vật, thời Hữu Thể còn chưa tha hóa, nghe rạc rời một nỗi đi qua đã mất, xiết bao nỗi nhớ nhung: “ Ngày sẽ về, sẽ nhìn Xuân Tinh Hoa thắm lại. Ngày sẽ về bên dòng bất tuyệt sơn tuyền sẽ theo dõi bóng trời đi”. (1)
Trong nao nao tiếng nhạc, cảnh giới đã thêm phần siêu hiện ban ngày trộn với trăng sương của màn đêm, và còn quyến rũ nữa. Quyến rũ sự trở về. Nhưng sự trở về này trong vẫy gọi của hoàng hôn Cố Quán nơi người lữ, là ông chăng, từng ra đi sương đồng ngậm bóng. Cùng với đó cái tôi trữ tình, rất kín tiếng thể hiện qua “ em về”, nhắn nhủ Tinh Thể tự xa xưa ra đời từ giòng khe (2), bước ra, một lần ra đi và đã từng lạc bước.
"Ngày sau chỗ ấy", đến đó dài lâu hơn cả "mùa sau" là ngày mai hậu, và phong cảnh cuối cùng ở khổ thứ ba là một tâm cảnh buồn mông lung trong hoàng hôn nhớ thương Cố Quận. Bài thơ “Gái buồn” kết dựng trong không gian và thời gian bàng bạc màu triết hiện sinh, xứng đáng là một kiệt tác mênh mang âm hưởng bất tận nhạc điệu của mưa nguồn chớp bể.
© P.K.Đ
Gái buồn
Bùi Giáng (1926-1998)
Bờ sau hang núi
Lá xanh lá đỏ chiều nay
Chim trời vòi või
Để rơi cánh mỏng theo ngày
Mùa sau thu xế
Hang rừng gió thổi giòng khe
Em về đây để
Rạc rời tiếng cũ còn nghe
Ngày sau chỗ ấy
Mây mù quyến rũ trăng sương
Em về sẽ thấy
Mông lung sầu mộng gái buồn.
(Mưa Nguồn, xuất bản tại Sài gòn, 1963)
Chú thích của tác giả:
(1) Bùi Giáng - Martin Heidegger Tư tưởng và Hiện đại – Nhà xuất bản Văn học 2001, tr. 74.
(2) Đặng Tiến – Bùi Giáng, Nguồn Xuân: Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là ''cái cửa khe huyền diệu'' - ''huyền tẫn chi môn'' theo lời Lão Tử.
Bờ sau hang núi
Lá xanh lá đỏ chiều nay
Chim trời vòi või
Để rơi cánh mỏng theo ngày
Mùa sau thu xế
Hang rừng gió thổi giòng khe
Em về đây để
Rạc rời tiếng cũ còn nghe
Ngày sau chỗ ấy
Mây mù quyến rũ trăng sương
Em về sẽ thấy
Mông lung sầu mộng gái buồn.
(Mưa Nguồn, xuất bản tại Sài gòn, 1963)
Chú thích của tác giả:
(1) Bùi Giáng - Martin Heidegger Tư tưởng và Hiện đại – Nhà xuất bản Văn học 2001, tr. 74.
(2) Đặng Tiến – Bùi Giáng, Nguồn Xuân: Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Đất, là ''cái cửa khe huyền diệu'' - ''huyền tẫn chi môn'' theo lời Lão Tử.