Thứ Tư, 1 tháng 2, 2023

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki    
 


Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig hỏi.

Marcel Reich-Ranicki: Gần đây tôi có hỏi một số bạn bè trong giới học giả (trong số họ đương nhiên không có ai là nhà nghiên cứu văn học Slav), thế thì ai là nhà văn Nga quan trọng nhất. Tất cả đồng loạt nêu Tolstoi hay Dostojewskij hoặc cả hai. Nhân tiện tôi cũng đặt đúng câu hỏi này với một số người Nga biết thấu đáo nền văn học của họ. Người nào được hỏi cũng trả lời tức khắc: Pushkin. Điều gì ẩn chứa đằng sau đó?

Sự thể hoàn toàn giản đơn: Tolstoi hay Dostojewskij đạt được thành công ở Nga và toàn bộ thế giới văn minh nhờ tiểu thuyết và truyện ngắn của họ, tựu trung nhờ các tác phẩm văn xuôi. Người ta có thể dịch chúng sang mọi ngôn ngữ, điều đó trong thực tế cũng đã xảy ra. Tất nhiên các bản dịch có chất lượng khác nhau. Thông thường ra, tuy thế, ngay cả những bản dịch non yếu nhất cũng cho ta nhận biết thiên tài của nguyên bản. Điều này đáng tiếc không đúng với thơ.

Hay nói cách khác: Tạm bỏ qua những ngoại lệ vẻ vang, những dịch giả thơ vững tay khá có khả năng đưa lại nét đặc biệt của một bài thơ ở khía cạnh nội dung hay hình thức, nhưng mà, để nói một lời ở đây, không tái hiện được vẻ quyến rũ của nó. Những nhà thơ nổi tiếng nhất của Ba Lan (Adam Mickiewicz và Julius Slowacki) không được người ta biết đến ở đất này, mặc dù chúng ta cũng có những bản dịch rất tốt (thí dụ của Karl Dedecius). Điều này tương tự cũng đúng như thế ở chiều ngược lại: Nước Đức có một nhà thơ lớn tên là Hölderlin, tại Ba Lan chỉ duy có giới Ngữ văn Đức hay biết điều này.

Thơ ca làm nên hơn một nửa tác phẩm của Pushkin, không còn nghi ngờ gì nữa thơ trữ tình chiếm trọng tâm trong toàn bộ tác phẩm của thi sĩ. Những gì ông luôn luôn viết: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, cổ tích – ông đều viết trong hình thức câu thơ. Những tưởng không nên đánh giá cao quá mức ý nghĩa của chúng đối với ngôn ngữ và văn chương Nga, mọi người hiểu chút ít về chuyên môn đều thống nhất như vậy. Bởi vì ông là người thực ra sáng tạo không những ra ngôn ngữ mà còn cả ra nền văn chương này nữa.

Ở phương Tây người ta không phải không biết đến những tác phẩm viết bằng thơ của Pushkin, bởi vì chúng làm nền tảng cho những vở opera Nga quan trọng nhất. Vở opera „Ruslan và Ljudmila“ của Glinka tiếp nối truyện cổ tích sử thi của Pushkin, nhà soạn nhạc Mussorgski đã viết khúc Libretto của vở „Boris Godunow“ dựa theo một bi kịch của Puschkin. Cả hai vở opera nổi tiếng nhất của Tschaikowsky cho truy tầm về Pushkin: về truyện ngắn „Con đầm Pique“ và trước hết về tiểu thuyết sử thi „Eugen Onegin“.

Nói ngắn gọn: Không hiểu biết gì về tiếng Nga người ta hoàn toàn không thể đánh giá được tầm vóc Pushkin. Với những nền văn chương khác liệu chúng ta có nỗi buồn này không nhỉ? Ồ, có đấy, nơi người Pháp cũng có chút gì tương tự. Thế giới biết đến những tiểu thuyết của Stendhal, Balzac và Flaubert, nhưng những tác phẩm của những thi sĩ Racine và Corneille thì ở mức độ quá ít ỏi. Đương nhiên con số độc giả Đức biết tiếng Pháp, một cách bất tương xứng, lớn hơn rất nhiều so với số có thể dùng tiếng Nga mon men tới bên lề.

Như vậy bây giờ trong tình huống này người ta làm gì đây với Pushkin? Người ta không nhất thiết phải từ bỏ ông. Người ta có thể tự bằng lòng với những tác phẩm văn xuôi xét cho cùng thế đấy ít quan trọng hơn của ông, chẳng hạn như với tiểu thuyết lịch sử „Người con gái viên đại úy“ được viết sau này „ hay là với truyện dài „Người đưa thư“ cả hai cùng gây ảnh hưởng mạnh mẽ lên văn chương Nga của thế kỷ 19.

Và còn Chekhov? Lần tới chúng ta sẽ chuyên tâm với nhà văn, chúng ta sẽ không bao giờ quên ông ấy, không bao giờ.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức.

Tranh của Horst Janssen (1929-1995) họa sĩ, nhà đồ họa người Đức.

Thứ Hai, 30 tháng 1, 2023

Kẻ thù chung của độc tài

Phạm Kỳ Đăng  



Suy luận theo logic, các nhà nước độc tài hay chuyên chế kết cục tất quay ra cắn xé nhau mới phải. Trớ trêu thay, nhiều thập kỷ hay thế kỷ nữa chẳng biết, chúng cố kết và liên minh được với nhau bởi một hằn học chung và một kẻ thù chung tha hồ trút tội và gột tội. Đó là Mỹ, đại diện cho cả Tây Âu.

Nhiều lần răn đe hạt nhân, bộ máy tuyên truyền (không chỉ ở) Nga viện cớ Hoa Kỳ ném bom nguyên tử lên nước Nhật.

Bị lún sâu hơn vào cô lập và cấm vận, họ quay sang đổ thừa cho Hoa Kỳ gây chia rẽ và âm mưu duy trì trật tự thuộc địa.

Hãy bình tâm suy xét hai luận điệu này. Vụ thả bom nguyên tử không đáng được ca ngợi trong lịch sử nhân loại, đương nhiên, nhưng hãy xét các cứ liệu thực tế, vào thời điểm đó Hoa Kỳ không còn một phương án khả thi ép được Nhật đầu hàng. Để chiếm được quần đảo với những người lính quân đội Thiên Hoàng trung quân mù quáng mang trong máu huyết tinh thần cảm tử bất chiến bại, quân đội Hoa Kỳ dự tính sẽ phải mất hơn 2 triệu lính thiệt mạng. Và phía Nhật cũng phải tổn thất bằng ấy nhân mạng.

Còn đổ tội cho Hoa Kỳ âm mưu duy trì trật tự thuộc địa ư? Điều này không thuyết phục mấy nếu nhìn về chính sách của Hoa Kỳ sau 1945. Thực tế chính quyền Hoa Kỳ đã từng phản đối và thuyết phục Pháp, một đồng minh trên mặt trận chống phát xít, nên từ bỏ chế độ thuộc địa.

Bộ máy tuyên truyền có thừa và càng ngày càng nhiều những luận điệu mị dân trong kho đụn của họ. Mọi lúc và trong mọi tình huống, nhà nước độc tài sẵn sàng cấp cho nhân dân, vốn bị giam cầm hoặc bắt cóc làm con tin, những ngụy cứ, ngụy lý bao biện. Trắng trợn nhất nền độc tài trang bị lý luận, dám tuyên xưng mang sứ mạng lịch sử. Cả lịch sử cũng bị cắt xén và xuyên tạc và trưng dụng tùy tiện nốt. Kẻ làm luật xưa nay có ngán nỗi gì.

Những ngụy biện bao giờ cũng thành công khi đưa ra tắp lự câu trả lời thỏa mãn đa số người dân bị nhồi sọ hoặc tránh xa chính trị.

Bới đã dám gây hấn, xâm lược, cướp giết, trí trá, lật lọng vô độ, thì còn gì không ớn mà không dám phá hoại và ăn vạ quốc tế.

Ai, kẻ nào tổ chức đánh thuốc nổ gây rò rỉ đường ống dẫn gas Nord Stream, phá hoại dây cáp điện đường sắt khiến toàn bộ giao thông miền bắc Đức nửa ngày bị đình trệ, các sự cố trục trặc giao thông công cộng hàng ngày, và hôm nay phóng hỏa trại tỵ nạn đón nhận người Ucraine? Điều ngẫm nghĩ cho phép ta khẳng định:

Mọi hành vi phá hoại ở quy mô châu lục có chung một địa chỉ đổ về điện Kremlin.

PKĐ

Tranh của Willem de Kooning (1904 – 1997): Họa sĩ Mỹ gốc Hà Lan, đại diện phái Biểu hiện trừu tượng, người mở đường cho phái họa Action Painting.

Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2023

Ngưỡng mộ ca tụng, giấu im như thóc

Marcel Reich-Ranicki   




Nhiều tác gia lỗi lạc hành nghề chính là bác sĩ, sao ngày nay không còn như xưa vậy? Nữ thi sĩ Ingeborg Bachmann có gì mà cuốn hút đàn ông lắm phải không? Văn chương Đức thiếu chất hài có phải? Tại sao mấy nhà văn thiên tài đời thường là những người nhàm chán? Thế liệu Strinberg có cải thiện được cuộc sống hôn nhân của các thị dân? Quan thanh tra của Gogol có làm giảm đi thói đút lót, hối lộ trong nước Nga Sa hòang? Liệu Borges có biết dạo đó ông ấy đeo một chiếc caravat xanh lơ cực đẹp không? Khi trả lời những câu hỏi từ ý vị tới vụn vặt, bực mình, ngớ ngẩn và thậm chí trơ trẽn nhất của độc giả trong chuyên mục ưa thích „Cứ hỏi Marcel Reich-Ranicki“ trên tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung số chủ nhật, vị Giáo hoàng văn học còn tán gẫu với họ, và một cách cuốn hút, ông kể về những cuộc gặp gỡ với các tác gia, đề xuất những trợ giúp diễn giảng, và nguyền rủa những đánh giá sai sót về văn học cũng như hoạt nghiệp văn chương. Nhiều câu trả lời từ một cách nhìn gián cách khôi hài, độc đáo ở cách điểm xuyết, đã không ngừng gợi hứng, cợt nhả và cả chọc giận người đọc. Và 99 bài hỏi và trả lời được thu thập lại trong một cuốn sách.

Vì khá nhiều đánh giá nghiêm khắc, sự dấn thân nặng cảm tính trong phê bình, do đó không tránh khỏi thiên kiến, sự thúc đẩy khai sáng không chỉ đụng chạm đến tác phẩm mà cả các tác giả, nên cũng nhiều phen, đặc biệt ở mục „Tứ tấu văn chương“ ông bị các nhà văn nổi tiếng „tuyên án tử“, không làm thế được, đánh đập cho xuống ruộng lên bờ.

Nhưng riêng ở chuyên mục này, cũng như chuyên mục Hợp tuyển Frankfurt, khơi dậy tình yêu văn chương và duy trì sự gắn bó mật thiết hơn với văn học, ông được yêu quí như một pop star trong trái tim bao người. - PKĐ


Ngưỡng mộ, ca tụng, và giấu im thư thóc

Marcel Reich-Ranicki

Có phải một cách bất công, Percy B. Shelley bị quên lãng? Hay chỉ ở Đức người ta xem nhẹ vai trò ông ấy? Độc giả Hartmut Regitz từ Berlin hỏi.

Marcel Reich-Ranicki: Chưa bao giờ tôi nghe thi hào Anh nổi tiếng Schelley bị lãng quên hay bị xem nhẹ tại nước Đức. Ông sống từ năm 1792 tới 1822, bị chết đuối gần Rome khi lướt thuyền và thậm chí được tôn thờ như một thần tượng. Ở Đức ông ấy ít được biết đến. Lý do? Đa phần các nhà thơ Anh không thể dịch nổi. Họ được trọng vọng, ngưỡng mộ và giấu im như thóc. Các nhà văn xuôi Anh luôn được người ta thích thú đọc, thí dụ như Dickens.

Nhưng độc giả Đức đặc biệt coi trọng những nhà tiểu thuyết lớn người Nga. Tolstoi, Dostojewskij, Gogol và Turgenjew được người đọc trên toàn thế giới ngưỡng mộ. Cũng như Tschechow, đứng vào hàng các nhà viết kịch và truyện ngắn quan trọng nhất của Nga.

Và ra sao nhỉ xung quanh các nhà thơ thiên tài, các nhà thơ trữ tình? Môt cách công bằng, Puschkin - người Nga hiển hách luôn luôn được ca tụng. Truyện thơ „Eugen Onegin“ thuộc về những thành tựu rực rỡ nhất của ông. Mà thế tôi sợ, thành công của Puschkin (tại nước Đức – ND) không nhất thiết đạt được nhờ truyện thơ này. Truy về gốc gác, phần nhiều hơn do vở opera "Eugen Onegin" của Tschaikowsky mang lại. Danh tiếng trên trường quốc tế của nhà thơ tuyệt vời Puschkin không so sánh được với thành công trên toàn thế giới của Tolstoi và Dostojewskij nhờ các tiểu thuyết.

Xin ông đừng quên, nhiều nhà thơ trong quá khứ thường không được các độc giả Đức biết đến, và mãi vô danh như vậy. Tình cảnh ấy ra sao với các tác giả Đức. Không ít người biết vở opera „Faust“ của Gounod tường tận hơn cả Goethe (không phải chuyện đùa đâu). Không ít người biết Rilke, nhưng họ không biết gì tới cái tên Hölderlin và không muốn dính dáng gì tới cái tên này.

Và ra sao với Schiller đây? Tại nước Anh, không ít danh tác cổ điển Đức mãi tới ngày hôm nay mới được trình diễn. Người ta nên thận trọng khi vội vàng đánh giá về chất lượng biên dịch các tác phẩm văn chương. Schelley không bị quên lãng một cách bất công. Nhưng mà ông là tác giả của một thời kỳ đã lâu lắm trôi qua.

Có điểm gì chung giữa Thomas Mann, Günter Grass và Thomas Bernhard? Có chăng chỉ là quyền lực của ngôn ngữ? Tiến sĩ Renate Zuckmantel từ Seeheim-Jugenheim hỏi.

Marcel Reich-Ranicki: Cái từ „chỉ“ gợn lên với tôi không mấy dễ chịu. Tôi không muốn nói gì thêm.

Phạm Kỳ Đăng giới thiệu và dịch từ nguyên tác tiếng Đức,

Tranh của Isaak Iljitsch Lewitan (1860-1900): Họa sĩ Nga.

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2022

Mùa hạ chia ly

Heinrich Heine (1797-1856) 



 

Tán lá vàng đang run rẩy,
Và rồi trút xuống lá rơi;
Ôi! Gì diễm kiều, thương mến,
Thảy tàn chìm xuống mộ thôi.

Tia nắng nhói đau lấp lóa
Ôm cánh rừng đỉnh non kia;
Có là những nụ hôn cuối
Của mùa hạ đang chia lìa.

Anh thấy, như thể phải khóc
Từ đáy lòng cõi thẳm sâu -
Bức tranh khiến anh lại nhớ
Khắc giờ ta giã biệt nhau.

Anh phải lìa em và biết
Chẳng mấy chốc em qua đời;
Anh là mùa hạ buông rời,
Em là cánh rừng đau yếu.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Der scheidende Sommer

Heinrich Heine (1797-1856)

Das gelbe Laub erzittert,
Es fallen die Blätter herab;
Ach! alles was hold und lieblich
Verwelkt und sinkt ins Grab.

Die Wipfel des Waldes umflimmert
Ein schmerzlicher Sonnenschein;
Das mögen die letzten Küsse
Des scheidenden Sommers sein.

Mir ist als müßt ich weinen
Aus tiefstem Herzensgrund -
Dies Bild erinnert mich wieder
An unsre Abschiedsstund.

Ich mußte von dir scheiden,
Und wußte, du stürbest bald;
Ich war der scheidende Sommer,
Du warst der kranke Wald.

Chú thích của người dịch:

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

George Sand viết về Heine:

„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."

„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand).

Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:

"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy sử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“

„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.

Tranh của Edward Cucuel (1875-1954: Họa sĩ Mỹ.

Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2022

Kẻ sĩ can ngăn

Phạm Kỳ Đăng



Bài viết của nhà báo Lê Phú Khải rất thú vị như nhiều bài báo về Nguyễn Kiến Giang - một người chí sĩ ở thời hiện đại đeo xiềng gông chịu đày ải giữa cuộc đời này. Con người ông ấy, theo như tôi biết, chỉ có thao thức với những nghĩ suy tường tận, chuyên chú vào hoạt động tư duy của mình vậy mà va chạm, rồi hứng chịu bao chịu bầm dập. Một nhân vật phát sáng cả khi đang giãy giụa hẳn cung cấp cho người đọc nhiều chi tiết đáng để đời ngẫm nghĩ, nhìn ở góc độ nào cũng ấn tượng cả.

Là người trí thức cộng sản từ thời trai trẻ nghiên cứu chủ nghĩa Marx, ông đã nhìn bao quát được chủ thuyết phê phán và vượt bỏ nó, gỡ được khỏi đầu mình cái vòng kim cô. Rồi cũng với tinh thần trọng thị và điềm tĩnh, ông “ đặt bàn thờ chủ nghĩa Mác-Lênin sang một bên, chứ không đặt lên đầu (…) nữa, tức là ngang với những nhà tư tưởng lớn của loài người như Rousseau, Robespierre, Montesquieu.”

Karl Marx, sinh thời tâm niệm mọi thứ thuộc về con người đối với chính ông không xa lạ, thật phi lý làm sao, đã tạo nên một học thuyết phiêu lưu về xã hội, xa lạ thuộc tính con người vào bậc nhất. Sinh thời Karl Marx bị khai trừ khỏi Quốc tế II; các lý thuyết gia của phong trào công nhân và dân chủ xã hội phê phán ông ở sự cực đoan và không tưởng. Friedrich Engels khi về già thừa nhận lỗi lầm tuổi trẻ ở những phát ngôn ngông cuồng non dại. Suốt trong thế kỷ 20, cả khi hình thành hệ thống xã hội, ở thời thịnh trị với những thành tựu đạt được, thêm phần phóng đại qua tuyên truyền, chủ nghĩa Marx-Lênin vẫn phải đương đầu nhiều đợt phê phán toàn diện hơn nữa, kể cả sau khi hệ thống ấy sụp đổ. Căn cứ vào cái bản tính người trong thực tế, ta thử nhìn lại, làm gì có chuyện làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Ai cũng thích hưởng thụ cả và ngay cái sự hưởng thụ này đã phung phí tài nguyên, thải ra bao là rác rưởi ảnh hưởng và tàn phá môi sinh, vậy ai tự giác đứng ra làm cái việc dọn cho người hàng xóm hưởng thụ hơn cả mình đây, thử nêu một ví dụ như vậy. Chưa kể là nền sản xụất tập trung, kế họach hóa theo nhu cầu sẽ giữ trình độ sản xuất đứng nguyên tại chỗ, trừ công nghệ quốc phòng, và mọi nỗ lực cải tiến chỉ có thể đưa về nền sản xuất của thế kỷ 19.

Đương thời Marx đã chứng kiến sự thất bại của cuộc Cách mạng vô sản đầu tiên của giai cấp công nhân là Công xã Paris xảy ra năm 1871. Ngay sau đó Marx phát minh ra chuyên chính vô sản, cướp đọat và duy trì quyền lực một cách bạo liệt. Trám vào lỗ hổng trong lý thuyết vị nhân sinh bằng một luận thuyết bạo lực, vô hình chung, ông đã giáng một đòn chí tử vào đồng loại. Sau này người ta truy nguyên các lãnh tụ cộng sản độc tài, từ Mao Trạch Đông, Stalin, Lenin v.v., đều tìm thấy ông tổ tinh thần của họ chính là Karl Marx. Các đường phố cũng như nhiều tượng đài Karl Marx vẫn được giữ nguyên, nhưng Hội đồng châu Âu vào ngày 25.01.2006, tại Straßburg ban hành Nghị quyết 1481 về sự Cần thiết lên án tội ác của các thể chế cộng sản toàn trị.

Nguyễn Kiến Giang nghiên cứu chủ nghĩa Marx và đi đến bác bỏ nó.

Nếu đọc lại một bài viết của ông thôi, ta thấy những ý kiến phê phán, đánh giá, và đề xuất của ông từ gần một phần tư thế kỷ trước, hiện vẫn còn như mới. Đảng Cộng sản Việt Nam đã từ chối kiến nghị của ông yêu cầu bỏ điều 4 trong Hiến pháp. Vẫn bằng thái độ bất chấp và ngạo ngược, cho đến hôm nay Đảng vẫn đòi cho mình vị trí độc tôn cai trị này, và như vậy Hiến pháp hiện hành phô diễn Cương lĩnh Đảng, sẽ lại tổ chức hết khủng hoảng này đến khủng hoảng khác, đợt sau mỗi lúc một tiềm ẩn nhiều hệ lụy và bi kịch.

Sẽ nhiều người trong chúng ta nuối tiếc, giá như các vua chúa, lãnh tụ biết nghe lời hiền giả, sĩ phu xưa như Nguyễn Trường Tộ và ngày nay là Nguyễn Kiến Giang, giá như họ đừng bỏ ngoài tai Tế Cấp Bát Điều hay tham luận “Khủng hỏang và lối ra”. Sự thật, tôi nghĩ, sẽ không có chỗ cho những giả tưởng đó. Một nền chuyên chính vô sản thiết lập, những kẻ tà ác và vô học cuối cùng sẽ thắng thế. Họ liên kết được với nhau, vì quyền và tiền ở giai đọan sau, đó là chất gắn kết nhất những kẻ đam mê nó thành một liên mình ma quỉ, trong khi những người có tri thức tập trung trí lực vào chuyên môn của họ sớm lạc lõng, thành con mồi cho liên minh này. Trong đội ngũ lãnh đạo cao nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, có hai nhà lãnh đạo kiệt xuất ở lĩnh vực của họ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Hồ Chí Minh (ở giai đoạn giành độc lập) cũng là hai người trí thức duy nhất - chính vì vậy một sớm một chiều bị cô lập và chịu câu thúc trong nhà lầu và nhà sàn. Nguyễn Kiến Giang, một trí thức độc lập, ở khả năng tư duy tổng hợp, dự báo và năng lực phản tư, hơn hai nhà trí thức kia, bị giam cầm trong nhà đá.

Nhưng cùng số phận với họ ông lọt vào tâm điểm của những người ngu muội, giáo điều nắm trong tay chuyên chính. Cái nền chuyên chính tàn bạo này, ăn thịt những đứa con của nó, và đau đớn thay điều này, xưa kia cho tới mai sau, mang tính quy luật. Ông từng nói: “Chúng ta không sợ lạc hậu, sợ nhất là lạc lõng giữa loài người.” Ngày hôm nay dân tộc này vẫn bơ vơ như thế, trong bi kịch dân tộc, tôi nghĩ còn có thân phận giới trí thức phản biện, tranh đấu, mọi bề thiệt thòi trong vây khốn, lẻ loi.

Nguyễn Kiến Giang thổ lộ : "Cho đến bây giờ tôi cũng không biết là tôi có tội gì nữa.„ Tôi nghĩ rằng, ông phải trở thành nạn nhân tất yếu của sự thanh trừng kẻ sĩ. Một trí thức độc lập tỏa sáng như ông, luôn làm kẻ vô học quáng mắt khó chịu, đặc biệt khi bầy đàn của họ chiếm thế lấn lướt, áp đảo. Ở bài có một chi tiết được nhà báo Lê Phú Khải ghi lại, khiến tôi đặc biệt chú ý: „…Kiến Giang còn kể: Lần cuối cùng Lê Đức Thọ vào thăm tôi, ông ta nói: Các cậu hay đề cao trí thức, phó tiến sĩ đi học về thì tớ cho thêm 5 đồng vào lương, thế thôi! Tôi nhìn thẳng Thọ nói: Xưa Đảng vô học vì phải đi đánh giặc, nay Đảng có chính quyền mà Đảng lại sùng bái sự vô học thì không được! Lê Đức Thọ đứng lên ra về. „

Khái quát nhược điểm người trí thức Việt Nam, cũng Nguyễn Kiến Giang đưa ra khái niệm “phò chính thống” lột tả thái độ tuân phục bợ đỡ của trí thức đối với thế quyền. Trong nhiều cuộc thảo luận, người ta đã chê bai không thương tiếc lỗi lầm của người trí thức cùng chung xây một nhà nước tòan trị, độc tài chuyên chế và đóng góp phần tổ chức cuộc khủng hoảng toàn diện của nó. Nhưng ta cũng nên ngó lại bộ mặt của kẻ đảng quyền với người trí giả vì nước dám liều mình can gián.

Chi tiết trên nêu ra biểu thị không gì sống động hơn thái độ của hôn quân vô học, bỉ ổi với chí sĩ và đến ranh giới tột cùng, mối quan hệ giữa độc tài và trí thức.

P.K.Đ 

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2022

Con bướm xanh

Hermann Hesse  



Một cánh bướm xanh bé nhỏ
Theo làn gió vút nhởn nhơ.
Mưa ngọc trai – một cơn mưa
Óng ả, long lanh, tan biến.
Với lấp loáng tia thoáng hiện
Thoảng qua trong gió vừa khi,
Tôi nhìn thấy hạnh phúc vẫy
Chói chang, lấp lánh, biến đi.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Hermann Hesse

BLAUER SCHMETTERLING

Flügelt ein kleiner blauer
Falter vom Wind geweht,
Ein perlmutterner Schauer,
Glitzert, flimmert, vergeht.
So mit Augenblicksblinken,
So im Vorüberwehn
Sah ich das Glück mir winken,
Glitzern, flimmern, vergehn.

Chú thích của người dịch:
Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói thảo nguyên) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.
Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.
Tác phẩm:
Thơ:
– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ
Văn xuôi:
- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch.
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.
- Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch.
- Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông.
- Sói thảo nguyên (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết.
- Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.

Tranh của Salvador Dali (1904-1989), họa sĩ, nhà điêu khắc và đồ họa người Tây Ban Nha, đại diện lớn nhất của phái Siêu thực (Surrealism) trong Hội họa.

Thứ Ba, 29 tháng 11, 2022

Đọc vào hồi sớm tối

Bertolt Brecht    



ĐỌC VÀO HỒI SỚM TỐI

Anh ấy, người em yêu
đã nói,
với em rằng anh ấy cần em

Cho nên
Em gìn giữ thân em
nhìn miết mặt đường
và sợ cả từng giọt mưa
có thể quật em chết.

EM MUỐN ĐI VỚI NGƯỜI EM YÊU

Em muốn đi với người em yêu
Không muốn so đo, hơn thiệt bao nhiêu
Em không muốn nghĩ lại, có chăng tốt đẹp.
Anh ấy có yêu em, em không muốn biết
Em muốn đi với người em yêu.

Nguyên tác tiếng Đức:

MORGENS UND ABENDS ZU LESEN

Der, den ich liebe
Hat mir gesagt
Daß er mich braucht.

Darum gebe ich auf mich acht
Sehe auf meinen Weg und
Fürchte von jedem Regentropfen
Daß er mich erschlagen könnte.

ICH WILL MIT DEM GEHEN, DEN ICH LIEBE

Ich will mit dem gehen, den ich liebe.
Ich will nicht ausrechnen, was es kostet.
Ich will nicht nachdenken, ob es gut ist.
Ich will nicht wissen, ob er mich liebt.
Ich will mit ihm gehen, den ich liebe.

© ® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Chú thích của người dịch:

Bertolt Brecht (1898-1956) quen thuộc với độc giả Việt Nam. Ông là kịch tác gia và nhà thơ, cùng với Franz Kafka và Thomas Mann, có ảnh hưởng rất lớn trong văn chương Đức thế kỷ 20.

Tranh của Peder Severin Krøyer (1851 - 1909) Họa sĩ người Đan Mạch - Na Uy.

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...