Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

Các họa sĩ Ấn tượng và Biểu hiện: Đám cưới của hai cựu thù

Christina Rietz 

Tranh của ©Erich Heckel (1883-1970): Họa sĩ Biểu hiện Đức.

Chủ nghĩa Ấn tượng và Biểu hiện thế đó không phải là những đối thể? Đơn giản thôi, Phòng tranh Quốc gia cũ Alte Nationalgalerie Berlin treo những tác phẩm đẹp nhất của hai khuynh hướng nghệ thuật bên cạnh nhau, và ta tìm thấy những nét tương đồng đáng ngạc nhiên.

Mũ trên đầu người thị dân rơi xuống đất/ Trên mọi tầng không khí vọng tiếng la/ Rơi nhào xuống và gãy làm đôi những thợ lợp mái nhà/ Đọc tin báo: sóng triều dâng trên biển.

Cũng như trong bài thơ „Tận thế“ của Jakob van Hoddis (1), những nhà Biểu hiện ăn nhập trong lời nói và hình ảnh: phấn khích, hốt hoảng, cuồng nhiệt và hoang dã. Họ chịu đau khổ ở thế giới công nghiệp hóa cao độ và tuy thế lại hào hứng bởi nó. Đối với họ, tàu điện thì quá ồn ào, nhưng họ lại thầm mong chiến tranh xảy tới.

Như thế họ hoàn toàn khác với những nhà Ấn tượng đã đi trước họ, những sinh thể rạng rỡ đam mê ánh sáng nhúng cây cọ chụp bắt ảnh hình thế giới và thích vẽ ở ngoài trời, trong công viên, trên cánh đồng hay ven hồ.

Khác biệt giữa hai nhóm nghệ sĩ này không thể nào lớn hơn nữa. Ở trong trường người ta đã được học điều đó. Thế mà giờ đây một cuộc triển lãm lớn và khang trang tại Phòng tranh Quốc gia Alte Berliner Galerie đã dỡ bỏ đi những định kiến cũ. Triển lãm „Ấn tượng - Biểu hiện. Bước ngoặt trong nghệ thuật“, trưng ra tranh của hai khuynh hướng bằng sự trực tiếp đối chiếu.

Một người Thụy Sĩ đã mang tranh người Pháp tới Đức

Với những họa sĩ Ấn tượng Pháp, đã từ lâu Phòng tranh Quốc gia Alte Nationalgalerie có quan hệ vô cùng mật thiết. Cuối thế kỷ 19, vị giám đốc Alte Nationalgalerie ngày ấy- ông Hugo von Tschudi, một người Thụy Sĩ - đã sang Pháp mua tác phẩm nghệ thuật, thời điểm đó tại Đức việc này phần nào bị coi là tai tiếng. Các tác phẩm của Renoir, Manet, Degas và Monet đã tìm thấy đường vào Đảo bảo tàng (2) như vậy đấy. Nhiều người đương thời hoàn toàn không hề thích một tòa kiến trúc mang dòng chữ tạc „ Nghệ thuật tạo hình Đức“ lại dọn nhiều chỗ như vậy cho người Pháp. Hugo Tschudi cho rằng, thể nào tranh của thời Hiện đại cũng cần phải được trưng bày tại Berlin. Lịch sử ủng hộ lý lẽ của ông.

Một số mô-típ hội họa ngự trị thế giới đa màu sắc của các nhà Ấn tượng gồm các scene về phong cảnh, thành phố, tiền ngoại ô, thú tiêu khiển ban chiều. Cuộc triển lãm mới được thiết lập theo những nhóm đề tài này. Cứ bên cạnh một nhà Ấn tượng phòng tranh treo một bức tranh của nhà Biểu hiện cũng cùng phạm trù để người quan sát có thể đối chiếu trực tiếp về phong cách cũng như đề tài.

Cả hai chủ nghĩa đều có chung một phong thái chống đối hàn lâm viện, chung tình yêu đối với tuyên ngôn và tuyên bố, cùng ưa chuộng ấn tượng nhục cảm. Vẻ như đôi lúc cả hai nhóm này thậm chí còn chia sẻ cái nhìn thế giới giống nhau: Bức tranh chân dung hai người của Edouard Manet vẽ một đôi bất hạnh trong vườn mùa đông chỉ ra hai người đơ cứng, mặc dù tay sát bên tay, nhưng đồng thời họ ở trong hai vũ trụ khác biệt nhau. Vẻ kinh hoàng lạnh lẽo của hôn nhân theo lý trí của thế kỷ 19 đã tác động trực tiếp người xem.

Trong Phòng tranh quốc gia, bên cạnh bức họa của Manet, hiện treo bức tranh của Edvard Munch“ Käte và Hugo Perls“. Họa sĩ còn không ban thưởng cho nhân vật của mình cảnh hậu trường tương tự, một đôi ngồi bên nhau không thể nào xa cách hơn. Nhãn quan phê phán hướng vào những khuôn phép của thời đại đều chung điểm tương đồng ở hai phong trào nghệ thuật lớn hiện đại của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đôi khi những người nghệ sĩ của hai khuynh hướng phong cách này thậm chí còn tìm thấy những lời đáp như nhau cho những vấn đề xã hội bức bách.

Trên thế giới ngày hôm nay không còn nổi bật sự hiện diện các nhà Ấn tượng phần đông là người Pháp và các nhà Biểu hiện phần đông là người Đức nữa. Ý tưởng của một nền nghệ thuật dân tộc từ lâu đã bị vượt qua. Ý tưởng đó từng ngấm ngầm xưa kia. Hoàn toàn đi ngược thành phần làm nên danh xưng của mình, Phòng tranh Quốc gia, tuy nhiên đã đánh giá rất cao nền nghệ thuật của cựu thù truyền kiếp (3).




© Phạm Kỳ Đăng dịch từ tiếng Đức
Nguồn: SPIEGEL ONLINE

Chú thích của người dịch:


Christina Rietz: Nữ nhà báo tự do, biên tập viên, và nhà phê bình.
(1) Jakob van Hoddis (1887-1942): Nhà thơ phái Biểu hiện trữ tình, nổi tiếng vì bài thơ Tận thế trích trong bài.
(2) Museuminsel: Hòn đảo nằm giữa Berlin, gồm tổ hợp nhiều viện bảo tàng, từ 1999 được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.
(3) Ý nói mối thù truyền kiếp Đức - Pháp thời cận-hiện đại.

Tranh: Erich Heckel (1883-1970): Họa sĩ Biểu hiện Đức.

Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015

Có những đêm trắng sao huyền diệu

Rainer Maria Rilke (1875-1926)


Tranh của Paul Klee (1879-1940): Họa sĩ Đức

 
Có những đêm trắng sao huyền diệu
Mọi vật như bằng bạc ánh lên
Kia một số ngôi sao mau lấp láy
Ngỡ mang theo những mục tử sùng tin
Tới Đức Chúa Giê su hài đồng mới.


Như rắc dầy bụi kim cương xa tới
Bỗng hiện ra sông lạch, đồng bằng
  Vô bao trái tim khoan hòa mộng
Một đức tin không nhà nguyện vút dâng
Đang lặng lẽ mở khai điều huyền diệu.

© Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức

Es gibt so wunderweiße Nächte

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Es gibt so wunderweiße Nächte,
drin alle Dinge Silber sind.
Da schimmert mancher Stern so lind,
als ob er fromme Hirten brächte
zu einem neuen Jesuskind.

                                   Weit wie mit dichtem Demantstaube
                                    bestreut, erscheinen Flur und Flut,
                                      und in die Herzen, traumgemut,
                                       steigt ein kapellenloser Glaube,
                                          der leise seine Wunder tut.

Chú thích của người dịch


Rainer Maria Rilke (1875-1926) Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương tiếng Đức.

Tranh: Đêm Ai Cập, thuốc nước, thiếp chúc Noel của Paul Klee (1879-1940), họa sĩ Đức, tác phẩm tiền phong, đa dạng có thể xếp vào nhiều trường phái Biểu hiện (Expressionism), Kết dựng (Construktivism), Lập thể (Cubism) Hoang dại (Primitivism) và Siêu thực (Surrealism).

Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015

Chỉ nghiệp dư mới luôn viết ở trình độ đều tay

Marcel Reich-Ranicki (1920- 2013) trả lời độc giả

Tranh của ©Willi Baumeister (1889-1955): Họa sĩ Đức

Những tiểu thuyết nào của Joseph Roth (1) không thành công? Lịch sử văn chương rồi có công bằng với Paul Celan (2)? Marcel Reich-Ranicki (3) nói về hai tác giả kinh điển đã hết sức được nương nhẹ trong điển phạm của mình (FAZ).

Khi đọc lại, tôi thấy tác phẩm của Joseph Roht khá không đồng đều về chất lượng nghệ thuật. Còn những tiểu thuyết nào của Roht ông cho rằng không thành công hay chăng? – Günter Herrmann từ Heilbronn nêu câu hỏi.

Marcel Reich-Ranicki: Chỉ có kẻ nghiệp dư và người bất tài liên miên sản sinh tác phẩm trên cùng một trình độ. Năng khiếu hoặc thậm chí cả thiên tài không chỉ viết những gì họ đã có thể, mà còn nỗ lực viết cái thứ mà chưa bao giờ họ gắng thử. Làm việc đó có thể không thành công cái mới. Cả ở Shakespeare cũng có những vở kịch yếu, hoặc, mà thật thế, những vở non tay hơn, cả nơi Balzac những tiểu thuyết đuối hơi và cả nơi Tolstoi những chương nhàm chán, cả nơi Thomas Mann những truyện ngắn gây thất vọng.

Cả cuộc đời Joseph Roht bị lệ thuộc vào những khoản thu nhập từ những hoạt động viết văn của mình. Ông viết ra rất nhanh nhiều thứ, hầu như không chỉnh sửa gửi cho ban biên tập và điều đó phải dẫn đến chuyện, dao động về trình độ trong một tác phẩm của ông thường ra là khó tẩy xóa và có khi còn lớn, vâng, tới mức gây bực mình nữa. Ai tự ép buộc viết tiểu thuyết nhiều kỳ cho báo (và điều này Dostojewskij đã làm) và ai, phải cúi lụy cái nghèo không ít khi cho in ra ngay những chương đầu của tiểu thuyết mình viết trước khi kết thúc bản thảo của toàn cuốn, người ấy đã ý thức được điều đó sẽ mang lại hậu quả gì rồi.

Tất nhiên trong số nhiều tiểu thuyết của Joseph Roht cũng có một số nhiều hay ít hơn không thành công. Nhưng mà trong các tiểu thuyết này nhìn chung có đầy đủ thứ khiến sự đọc sách thành niềm khoái lạc. Trước tiên ở những tiểu họa xen kẽ vào, những ấn tượng thi vị, những trình bày hóm hỉnh và những tình tiết bi hài thường rời rạc đứng tách khỏi hành động thực của tiểu thuyết.

Mà tuy thế Roht chưa bao giờ xâm phạm vào vẻ tự nhiên của giọng điệu. Ông yêu những màu mềm và nét viền cứng. Trong những đoạn đối thoại thường rất kiệm lời, cái quyết định được biểu đạt qua những quãng nghỉ: Sự làm thinh của nhân vật anh hùng nơi ông có nhiều sắc thái biểu đạt bất tận. Ông yêu tính yêu kiều hơn nhiều so với tính trọng lượng. Ông là một nhà phân tích nhiệt thành và một kẻ tán gẫu có kỷ luật. Ngõ hầu từ cả cuộc đời chán ngấy ông đã sáng tạo nên những tác phẩm bậc thầy của sự đáng yêu..

Trong lịch sử văn học nhà thơ Paul Celan có giá trị vị trí nào không xứng đáng với ông ấy? – Ute Layßner hỏi.

Marcel Reich-Ranicki: Hẳn bà muốn biết theo quan điểm của tôi nhà thơ nổi tiếng Paul Celan, sống quãng đời từ 1920 tới cuối tháng Tư năm 1970 được đề cao quá mức hay bị đánh giá quá thấp có phải không. Đáng tiếc tôi phải làm bà thất vọng, bởi câu trả lời của tôi là: Tôi không biết điều đó.

Có điều chắc chắn: Nhiều người am tường thơ Đức coi Celan là thi sĩ Đức quan trọng nhất trong thời sau Thế chiến thế giới 2. Nhưng trong chuyện thơ ca rất ít khi đạt được sự thống nhất. Các phán xét về Stefan George phân cực rất xa nhau, vâng thậm chí cả về Hölderlin hay là Heine. Và điều này càng đúng đối với Celan.

Sớm hơn người ta thống nhất được quan điểm, rằng bài thơ nổi tiếng nhất của ông ấy „ Tẩu khúc tử thần “ cũng là bài thơ hay nhất, nổi tiếng nhất bằng tiếng Đức sau 1945. Tôi không muốn bộc lộ ý kiến về siêu tác phẩm này. Tôi hoàn toàn không thể phán xét được về cái đó. Bởi vì tôi không biết những câu thơ nào khác của toàn bộ thời đại về Hitler đã rúng động lòng tôi sâu hơn những câu thơ về Trùm nghề đến từ nước Đức „Tử thần gã trùm nghề người Đức mắt gã xanh / với viên đạn chì bắn anh, bắn trúng anh“. Nhưng tôi không muốn giấu diếm, có những bài thơ của Celan tôi hoàn toàn không hiểu hoặc là chỉ hiểu phần nào, còn các bài khác mà tôi tuy tin rằng mình hiểu, mà thế đó đối với tôi chúng vẫn nguyên còn lạ lẫm.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ tiếng Đức
Nguồn: FAZ

Chú thích của người dịch:

(1) Joseph Roht (1894-1939): Nhà văn, nhà báo người Áo

(2) Paul Celan (Paul Antschel, 1920-1970): Nhà thơ viết tiếng Đức, gốc Do thái. *Sinh tại Czernowitz, Bucovina, tỉnh lỵ của đế quốc Áo-Hung, thời còn trực thuộc Romania, nay thuộc về Ukraine * 1937- 1939: Học nghề Y tại Tours, Pháp* 1941-1945: Chạy trốn, bị cầm tù trong trại tập trung. Cha mẹ ông bị áp giải vào trại tập trung ở Transnistria, nơi cha ông chết vì thương hàn và mẹ ông bị bắn chết *Sau 1945: Làm phiên dịch trong nhà xuất bản ở Bukarest sau Thế chiến II *Năm 1947 di cư qua Vienna, sau sang Paris 1948 *Tại đây Paul Celan nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn chương, giảng tiếng Đức tại Écolo Normale Supérieure. 1970: Tự sát, gieo mình xuống sông Seine sau chuyến thăm Israel vào tháng Mười năm 1969.

(3) Marcel Reich- Ranicki (1920 – 2013): Nhà phê bình văn học, nhà trước tác có ảnh hưởng lớn nhất đương đại trong khu vực nói tiếng Đức, người được tôn vinh là Giáo hòang văn học.

Tranh của Willi Baumeister (1889-1955): Họa sĩ Đức, nhà đồ họa, trang trí sân khấu, nhà lý thuyết nghệ thuật, một trong những họa sĩ quan trọng nhất của phái Hiện đại.

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2015

Buổi chiều đến từ nơi xa bước

Rainer Maria Rilke (1875-1926)


Tranh của © Claude Monet (1840-1926) họa sĩ Ấn tượng Pháp


Buổi chiều đến từ nơi xa bước
qua lùm thông tuyết phủ, nhẹ không
Rồi chiều áp đôi má mùa đông
lên mọi khung cửa sổ nghe ngóng

Và mỗi ngôi nhà trở nên yên ắng
những cụ già trên ghế bố trầm ngâm,
những người mẹ như các bà hoàng hậu,
Trẻ con không muốn bắt đầu
trò chơi của chúng. Các cô hầu gái
không còn xe sợi nữa. Buổi chiều hướng nội im nghe
và bên trong người nghe lắng ngoài kia.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Der Abend kommt von weit gegangen

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Der Abend kommt von weit gegangen
durch den verschneiten, leisen Tann.
Dann preßt er seine Winterwangen
an alle Fenster lauschend an.

Und stille wird ein jedes Haus;
die Alten in den Sesseln sinnen,
die Mütter sind wie Königinnen,
die Kinder wollen nicht beginnen
mit ihrem Spiel. Die Mägde spinnen
nicht mehr. Der Abend horcht nach innen,
und innen horchen sie hinaus.

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương tiếng Đức.

Tranh của Claude Monet (1840-1926), họa sĩ tiêu biểu của phái Ấn tượng (Impressionism) Pháp.

Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2015

Trái tim vô sự

Phạm Kỳ Đăng

Tranh của © Carl Spitzweg (1808-1885): Họa sĩ Đức

Bài thơ mở tầm nhìn vào cuộc vãn cảnh, một cuộc tiêu dao. Cảnh hiện ra cỏ chân đê trôi trong sương khói, ai cũng thấy cả thôi, cũng thơ mộng như mùa xuân ngủ ngon trên lưng những con bò vàng.

Chỉ có lời trách cứ tự bản thân đưa đẩy Tháng giêng sao anh không về Văn Giang ngắm sông Hồng, tức thiếu tiếng vọng người tình da diết hẹn hò, nên thiếu say đắm của một cảnh giới siêu thóat vượt trên trần thế như Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, vẻ hùng vĩ điêu linh bên giòng sông Đuống trong thơ Hòang Cầm.

Dễ hiểu là nhà thơ về thăm làng cũ, sau chén thù chén tạc sẽ bước chân vào chùa. Bàn tay thi sĩ nắm tay những người nông dân ấm, mềm, chân thật.

Phong cảnh hiện ra, không có gì đặc sắc trong các câu văn tả chỉn chu. Con người mà tác giả gặp lại mừng đến rưng nước mắt.

Hình ảnh tả chân đan chen cảm xúc phát triển trên trục chung Độc thọai - Tự sự - Cảm thương - Ưu thời - Mẫn thế như hàng vạn bài thơ thời Nguyễn Khoa Điềm làm chủ sóai. Thơ bày tỏ trắc ẩn, điều đó không lạ. Các tác giả Việt Nam cổ điển đã có những rung động về thế sự, có những ưu thời mẫn thế mang kích thước vũ trụ. Còn ưu tư mang tính thông điệp trong bài thơ sau Khi mồ hôi trở nên quá rẻ/Kẻ ranh ma trở nên quá giầu rất yếu ớt. Hơn ai hết, ông thừa biết bi kịch lớn đã và sẽ xảy ra không vô hại như vậy. Những toan tính của tập đòan lợi ích mang bộ mặt tư bản đỏ rừng rú sẽ còn đẩy đại bộ phận nhân dân Việt Nam nay mai ra sẽ ra đứng đường. Nhà thơ, từng đứng trên tháp cao quyền lực của cơ quan bịt họng, từng có những cơ hội để cho dân đen trở thành công dân có quyền mở miệng, lại chỉ thu họach được một nhận thức đúng nhưng vô thưởng vô phạt và ơ hờ như vậy chăng.

Hình như trong bài viết phê bình Việt Bắc, tôi nhớ Trần Dần có nhận xét, Tố Hữu yêu ai thì người đó phải bé tý lại, càng ngợi ca hào hùng người ta càng phải khép nép bên người lên giọng ngợi khen. Nguyễn Khoa Điềm phát mãi tình thương, mua được rất nhiều nước mắt ở những con người nhẫn nại, cam chịu và dĩ nhiên thấp cổ bé họng đứng dưới, thì khi ông chìa tay ra, con người ta với tư cách là chủ thể mà trong thơ, không bắt nói hết, có thể cảm nhận được qua nét mặt mũi, thịt da và tiếng nói, còn dần dà biến hẳn đi. Bởi vì mãi mãi phải đứng dưới, họ chìa bàn tay lao động đáng ra biết xiết rất chặt, hẳn không quen gần gụi, thành ra gặp bàn tay nắm của người thi sĩ lên quan, khép nép mềm buông, vụng về là thế.

Nhưng đó là tiếng nói chung của một nền thơ tuyên giáo dân túy, ôn nghèo gợi khổ-ghi tạc công lao và gửi gắm ưu phiền thế sự. Sắp xếp ở những câu thơ không vần rất chỉn chu, nôm na là đằng khác, tôi không cảm được ở hai bài thơ một tiết tấu nhịp điệu bên trong nào, một nỗ lực lao động nào đáng kể, theo hướng cách tân và hiện đại. Trừ ý Nhận ra trong mỗi khuôn mặt đen sạm/Những tháng ngày bỏ quên, bật lên mơ hồ và dang dở, có thể là một điểm nhấn đáng kể, đáng được ý hơn nếu được khai thác thành thi tứ có đầu có đũa.

Tôi không dám nói tòan bộ thơ dựa trên cái nền biến-mẫu số này tòan là dở vì cũng tùy cái tâm công chính, tùy cái tài của người cầm bút. Chỉ có điều phần bạc nhạc dở nhất, xí ngầu gân cốt nhất được suy tôn làm khuôn vàng thước ngọc chính thống. Trong nền văn nghệ ấy không ai được vinh danh rộn rã hơn về thế quyền chức phận, không ai qua mặt được thơ Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm.

Và tất nhiên, theo cái lộ trình ôn nghèo gợi khổ hàm thấm công ơn đó, từ cái ngày xưa vỡ đê chưa sinh ra ông Nguyễn Khoa Điềm đang muốn níu tay, logic thôi, ông sẽ dẫn họ vào cái kết cục Nhà nối nhà, đã ấm đã sáng, vọng một điệu chèo/ Sông Hồng mải miết làm lịch sử

Nhà thơ tụt từ tháp quyền thế xuống, đi dạo vãn, và thương người cần lao. Cái kết cục đã biết lắm rồi, nhạt nhẽo quá đi.

Nhưng đọc câu cuối cùng ở bài thơ thứ hai, thực tôi không hiểu nhà thơ kia nghĩ gì khi viết trái tim lăn tròn yên ả. Cùng ông men theo mạch hai bài thơ sống qua cảm xúc rất đáng trân trọng của đời người Bao nhiêu bùn bao nhiêu khổ đau, để rồi cuối cùng ông chỉ cho thấy một trái tim lăn tròn yên ả, thì chịu thật, trời ơi, cảm theo cá nhân tôi, đó là cao trào nội tâm hình như có chút gì phản cảm.
 

©P.K.Đ/ Dez. 2012

Tháng Giêng về Văn Giang

Nguyễn Khoa Điềm

Tháng giêng sao anh không về Văn Giang ngắm sông Hồng

Nhìn cỏ chân đê trôi trong sương khói
Mùa xuân ngủ ngon trên lưng những con bò vàng
Ngoài đồng đã kín những người đi tìm no ấm

Trong ngôi chùa cổ nở xoè pho tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt
Tôi nắm tay những người nông dân ấm, mềm, chân thật

Như níu được nhau tự ngày xưa vỡ đê
Mừng đến rưng nước mắt
Nhà nối nhà, đã ấm, đã sáng, vọng một điệu chèo
Sông Hồng mãi miết làm lịch sử …

Cánh đồng buổi chiều


Nguyễn Khoa Điềm

Có một nhà thơ đi mãi vào cánh đồng buổi chiều
Lởm chởm những gốc rạ sau mùa cấy gặt
Mùi thơm lúa khoai thân thuộc
Nói gì hở tiếng reo cỏ may
Mùa thu vừa trở lại?

Nhà thơ cúi xuống tìm những hạt mồ hôi bỏ quên trên mặt đất
Bao người đã mất, đang còn
Sống âm thầm sau rặng tre khuất lấp
Không một dấu vết
Những mặt ruộng nứt nẻ

Chúng ta vẫn bưng bát cơm trắng mỗi ngày
Thật đơn giản, hiển nhiên, như hơi thở
Không còn nhớ có bao giọt mồ hôi trên mặt ruộng
Bao nhiêu bùn, bao nhiêu khổ đau
Khi mồ hôi trở nên quá rẻ
Kẻ ranh ma trở nên quá giàu

Đã lâu nhà thơ lại trở về với cánh đồng làng
Hít sâu hương thơm no ấm
Nhận ra trong mỗi khuôn mặt đen sạm
Những tháng ngày bỏ quên

Bằng bước chân chậm rãi
Nhà thơ lặng lẽ nối gót người nông dân đi mãi
Mặc cho ngôi sao hôm xa ngái dẫn đường
Thăm thẳm ngõ quê rơm rạ
Trái tim lăn tròn êm ả.


(Hai bài đăng trên Blog Quê Choa tháng 12.2012)


Nhà thơ nghèo (Der arme Poet) - Carl Spitzweg (1808-1885): Họa sĩ Đức

Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2015

Bất ổn của nhà nước vắng công dân

Phạm Kỳ Đăng
   
Tranh của © Karel Appel (1921-2006) họa sĩ Hà Lan
 

Người Việt ra năm châu lo sợ khá nhiều thứ. Lo sợ về thân thế: trong một đoàn khách quốc tế nhập cảnh sang Singapur, sang Mỹ, sang Anh, hay sang các nước châu Âu, thế nào người Việt, kể cả những thương gia hay quan chức giàu có, cũng bị soi xét kỹ lưỡng hơn. Nếu căng, bị đưa vào phòng kiểm soát, chắc hẳn người mình bị lục vấn bằng những câu hỏi khó nghe hơn so với chuẩn mực giao tiếp văn minh phổ quát. Cái tiếng xấu của ăn cắp, rửa tiền, đưa người, mại dâm, trồng cỏ, được tung lên TV, báo chí ở một số nước châu Á, - chính truyền thông nhà nước chẳng buồn gột rửa mà còn đưa tin lại khá rõ - tại một số nước châu Âu cũng tới tai nhà chức trách bằng những thông báo nội bộ hay hướng dẫn thi hành.

Có hẳn là lúc nào người dân Việt cũng phải so đầu rụt cổ kém cạnh nhà người ta không. Trong một trường hợp tôi nghĩ rằng không. Giả tưởng rằng sắp tới đây xảy ra một vụ bắt cóc do nhà nước khủng bố tiến hành, lọt vào trong đám con tin có cả người Việt mang hộ chiếu công vụ hay du lịch, người đồng bào nhà mình, so với các công dân Anh, Pháp, Anh, Đức, Ý, Tây Ban Nha v.v. thế mà lại có cơ may được thả ngay tức thì, ít ra sớm nhất. Các chiến binh bịt mặt nạ đen hung ác sẽ rất thất vọng vì bắt nhầm vào đó người Việt Nam. Hay là vui vẻ cũng nên. Nếu rảnh rỗi phiên gác có lẽ chúng còn mời người Việt „kiêu hãnh trên tuyến đầu chống Mỹ“ nán lại, hút shisha, chén chú chén anh, chúc tụng và tuyên dương chiến tích anh hùng thắng đế quốc nữa cũng nên. Nếu quả có thế, hồn thơ của nhà thơ tuyên giáo Tố Hữu đang mơ ngủ ở thế giới bên kia, có thể mãn nguyện ngẩng cao đầu thêm vài lần nữa.

Những kẻ khủng bố theo Hồi giáo cực đoan đưa người Việt Nam ra khỏi tầm ngắm còn vì nhiều lẽ. Người dân Việt Nam xét ra không phải là tín đồ cuồng tín của một tôn giáo tương tranh. Đất nước đó, qua sự nhập khẩu một giáo điều lạ và suy tôn thành một tôn giáo mới, đã bình định mọi tín ngưỡng và tôn giáo cổ truyền. Nhà Phật gì mà bày tượng lãnh tụ trên điện thờ. Nhà sư gì mà vào quốc hội phát biểu như tuyên giáo chính tông. Còn thường dân vào lễ chùa véo oản, sờ đầu tượng cốt khấn lộc cầu tài hay vận may cá cược. Cho nên, ở người Việt không tiềm ẩn một kẻ đối đầu về tín ngưỡng. Và họ lại nghèo, người Việt nghèo là một chuyện không cần phải che đậy. Sang Trung Đông làm việc không ít người Việt Nam làm khách thợ. Bức tranh về họ, những người công nhân lam lũ ở những miền Trung Đông không kích thích lòng ghen tuông hay đố kỵ, càng không sự thù ghét trong ý thức các chiến binh Hồi giáo. Thường thói đời bắt cóc người nghèo khó đòi được tiền chuộc. Nhưng lý do cơ bản nhất khiến cho chiến binh Daesh chùn tay, kể cả khi tóm được đại gia Việt Nam giàu có đeo lủng lẳng dây chuyền vàng, đồng hồ Rolex, thì chúng cũng thừa biết, họ là những kẻ lang thang không nhà nước. Gợi rung động từ phía nhà nước Việt Nam cũng tựa cầu mưa trên sa mạc, đòi nhà nước Việt Nam tiền chuộc khác nào mấy như đập vào vách đá.

Thế đấy, trong nhiều nguyên cớ được suy xét, lý do cơ bản nằm trong quan hệ chiếm hữu, chủ nô giữa nhà nước CHXHCN Việt Nam với nhân dân của mình. Con người không rẻ, chính cái nhà nước ấy áp cho người dân của họ một cái giá vô cùng rẻ mạt. Sự hạ giá trường kỳ và hệ thống tư cách con người, tệ hơn thời phong kiến, thực dân, trải qua bao biến thiên đầy chiến tranh bom đạn liên tục diễn ra ở hai quá trình vận động lớn song hành đã khuynh đảo và tàn phá cấu trúc xã hội suốt hơn 70 năm qua.

Ở quá trình thứ nhất, được gọi là xóa bỏ tư hữu (Cải cách ruộng đất, Hợp tác hóa, Cải tạo công thương nghiệp, Đánh tư sản miền Nam) người dân bị tước đoạt phương tiện sống, bị tước bỏ luôn tư cách cá nhân, cá thể. Rồi chính con người của tập thể bị hạ giá nhiều cấp nữa trong quá trình thứ hai: cải biến con người thành công cụ. Sự tước đoạt nhân quyền và nô dịch hóa người dân do Đảng và Nhà nước tiến hành qua nhiều khâu cải tạo, giáo dục, và hội nhập cưỡng bách. Giáo dục, Đào tạo và Nghiên cứu phải căn cứ và nhắm đích tư tưởng Marx, Lenin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh sau này. Các tổ chức Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên và các tổ chức xã hội, mặt trận giả hiệu khác cũng do Đảng bày đặt ra nhằm củng cố vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên người dân Việt Nam trong thực tế suốt đời bị chối bỏ quyền làm công dân: quyền tự do bầu cử, tự do thành lập đảng phái, hiệp hội, tự do báo chí. Có thể nói nhà nước loại bỏ hầu hết người dân tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội. Đó là nhà nước khống chế, trấn áp, bóc lột và chăn dắt. Nhà nước cho đến hôm nay hoàn toàn vắng công dân, và nhà nước đó, không qua chế độ tuyển cử do dân bầu, cũng chẳng có luôn dân tịch. Dưới đám quan chức quyền lực của Đảng, tồn tại thần dân, người ta hay nói, phó thường dân. Và thần dân phần lớn vốn sợ hãi, dửng dưng hầu như chưa dám ý thức đảm nhận quyền công dân của mình.

Xã hội Việt Nam hôm nay tiềm ẩn trong mình những nguy cơ xung đột lớn, về lâu dài chưa chắc bộ máy an ninh và quân đội có thể tiếp tục trấn áp. Bối cảnh xã hội với phá sản, thua lỗ, nợ công, thất nghiệp, bán thân, bần cùng hóa, tham nhũng, cướp đất, và cướp của giết người v.v. không hợp làm hậu trường cho lễ đài ăn mừng thắng lợi của nhà nước. Lãnh thổ, tài nguyên mất dần vào tay Bắc Kinh; biển đảo, lãnh hải cho dân chài mưu kế sinh nhai cũng bị Tàu cộng dần dà chiếm nốt. Việc kéo dài vai trò độc tôn của Đảng bằng cách phối hợp toàn diện với chính cái Đảng cộng sản Trung quốc tham tàn sẽ chỉ gây uất ức, phẫn nộ và đẩy nhanh Đảng vào vị trí thù địch dân tộc. Những động thái tăng cường trấn áp, sách nhiễu người bất đồng chính kiến và dân oan mất đất, gần đây hơn một bước giả dạng côn đồ hành hung, trả thù, giam cầm tù nhân chính trị và bắt thêm người đấu tranh dân chủ còn cho thấy bộ mặt khác của nhà nước với người dân Việt: bộ mặt khủng bố.

Đàn áp mạnh tay như vậy với cớ ổn định chính trị, tuy nhiên nhà nước này đang hồi hết sức nguy ngập. Chỉ thấy từ trước đến nay nhà nước kết tội bỏ tù người chống đối bằng điều luật 258 „lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước“. Trong tương lai gần, chính vì thế sẽ có rất nhiều người dân kết tội nhà nước với những kẻ cầm quyền đứng đầu về tội lạm dụng quyền con người của nhân dân trong nhiều thập kỷ.

Và bây giờ, xung quanh cuộc thảo luận về môn học lịch sử, người nhà nước đề nghị bỏ hẳn bộ môn Sử. Có vẻ cái nhà nước đó muốn thủ tiêu lịch sử trong đó có cái lịch sử bất chính danh của mình. Khốn nỗi, xóa lịch sử cũng không dễ như xóa nợ.

Bỏ môn Sử hay dạy Sử kiểu tích hợp theo ý Đảng đằng nào cũng thế cả, giáo dục và nghiên cứu kiểu „định hướng“ sẽ xuất ra lò dư luận viên khả dĩ nhiều hơn. Tất cả những môn học thuộc về khoa học nhân văn, xã hội, và tinh thần ở Việt Nam, cấp độ phổ thông cũng như nghiên cứu, thiết nghĩ đều phải được biên soạn và giảng dạy phi chính trị thì không hẳn đúng, nhưng ngay từ bây giờ nhất thiết phi tuyên giáo.

Lại có sáng kiến tích hợp bộ môn Lịch sử vào Giáo dục công dân. Nhưng giáo dục công dân là cái gì mới được? Khái niệm công dân (Bürger/citizen) hình thành song song với nhà nước tư sản đại nghị khai sáng tinh thần Tự do, Bình đẳng, Bác ái của Cách mạng Pháp, hoàn thiện cho đến nay là nhà nước dân chủ - dân sự - pháp quyền ở nhiều nước Tây Phương. Chưa bao giờ người Việt (trừ một giai đoạn nào đó thời Việt Nam Cộng Hòa) được làm công dân. Dưới chính thể cộng sản độc tài toàn trị, từng người Việt Nam chỉ là thần dân mà thôi.
 

Giáo án môn Giáo dục công dân, xét từ hiện thực Việt Nam hôm nay, nếu có, nên bắt đầu bằng tiền đề: Chúng tôi người Việt Nam thèm khát được là công dân, chưa bao giờ cha ông tôi cũng như tôi được làm công dân cả.

Trái ngược cam kết để gia nhập hiệp định TPP, chính quyền mấy ngày nay ráo riết ngăn cản sự hình thành các tổ chức xã hội dân sự và công đoàn độc lập. Sự „ổn định chính trị“ mà đảng cộng sản Việt Nam rêu rao và dùng công an quân đội duy trì thực chất là tình trạng khống chế xung đột.

Đó là sự bất ổn bên trong, thực sự khắc phục được chỉ có thể bằng cách trao lại nhân quyền cho dân. Xác lập tư cách công dân về lâu dài mới tạo nền tảng thực sự cho một chế độ khiến người dân yêu thượng và sẵn lòng bảo vệ.

Thế còn bao giờ người dân Việt Nam gánh chịu cả sự bất ổn bên ngoài, khi nào người dân Việt cũng vào đích ngắm của khủng bố quốc tế? Tình hình này có thể thay đổi rất nhanh. Chính trị Việt Nam vốn được quyết sách bởi nhóm người vây quanh lãnh tụ, lãnh đạo của nhà nước phong kiến - thần quyền kiểu mới từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Phú Trọng, cho tới hôm nay cũng chưa một ai có tư cách và ý thức công dân nốt. Các vị ấy thuộc về một đảng tiếm quyền loại trừ phần lớn nhân dân ra khỏi tài sản, quyền hành và luật pháp, và tự cho mình được đối xử theo luật pháp khác. Đứng đầu một tập đoàn quyền lực, tham nhũng hôm nay chỉ là những kẻ độc tài bịt miệng người dân dưới phương châm „đã có đảng và nhà nước lo“. Họ sẽ ra những quyết định độc đoán không tham kiến công luận, không hỏi ý nhân dân. Trong bối cảnh theo đuổi một chính sách đu dây vô vọng „không liên minh với một nước chống lại nước thứ ba“ nhà nước CHXHCN Việt Nam kiệt quệ muốn xin tiền viện trợ hay để phá vỡ thế cô lập, tới đây rất có thể qua một đêm, sáng hôm sau gửi ngay quân đội vào liên minh quốc tế tham chiến chống phiến quân IS.

Lúc đó người Việt Nam sẽ tức khắc thành nạn nhân của khủng bố.


© PKĐ – Bài đăng Bauxite Việt Nam

Tranh của Karel Appel (1921-2006), họa sĩ Hà Lan, sáng lập nhóm họa sĩ CoBra.

Thứ Ba, 1 tháng 12, 2015

Nắng nhạt

Phạm Kỳ Đăng

Tranh © của Emil Nolde (1867-1956), họa sĩ Biểu hiện Đức

Ôi nắng nhạt xin đừng rung hết lớp
Nào tôi mong một lượt ráng chiều đâu
Mà hoan hỉ vội trong ngàn đóa sáng
Trút rỡ ràng theo vồn vã phù dâu

Hè sắp tắt ngàn mắt mong sáng giá
Trong tứ thơ ảm đạm một linh hồn
Đừng nín thở: ngàn sao đang nhấp nháy
Dưới chân trời sắp sửa những nụ hôn

Ào ạt nữa! Chiều tàn, môi vĩnh biệt
Nhấp khôn cùng đắng chát cuối trời mây
Dần tối lại - một nụ cười chua chát
Sẫm rượu vang còn cợt nhả đâu đây

Xa lánh quá, dường chim còn tiếc nuối
Cánh vẫy vùng đập động ánh vàng phai
Như hiển hiện chút xót thương lánh nạn
Chấp chới bay và buồn bã thở dài.

© PKĐ – Mê Ca- 1991

Tranh sơn dầu của Emil Nolde (1867-1956), họa sĩ Biểu hiện (Expressionism) Đức

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

Vây bủa bởi sự tuyên truyền

Gero von Randow
    
© Tranh của Salvador Dalí (1904-1989)

Trong thời đại của Thông tin đại chúng, kẻ thống trị sử dụng Tuyên truyền mạnh mẽ hơn bao giờ hết, kể cả trong những nền dân chủ (Die Zeit).

Tuyên truyền có nghĩa là xâm lấn. Nó nhỏ giọt vào trong câu chuyện, trong suy nghĩ của chúng ta và tàn phá sự sáng trong của nó.

 

Tất nhiên những gì chúng ta nghĩ không chịu ảnh hưởng của Tuyên truyền cũng không là tấm gương sáng bong của hiện thực. Những lầm lẫn, ngu tối, sở thích – tư duy của chúng ta có nhiều mô-tip, kể cả điều chưa suy xét cũng hùa vào, tỉ dụ như tình cảm, thêm vào đó những lề thói khi phát ngôn, ảnh hưởng tới hướng đi của chúng. Đại thể tuyên truyền gây tác động theo cung cách đặc biệt, bởi vì câu cú của nó khác. Những câu này nhắm mục đích khuất phục, chúng lợi dụng điểm yếu kém của ta. Ngoài ra các vị tổ sư của tuyên truyền không chú trọng xem những câu cú đó thực hay xằng bậy: chúng chỉ phải gây tác động. Và cuối cùng chúng được sản sinh một cách hệ thống, trong dạng thức của các cuộc vận động (Kampagne - cái từ này khởi thủy có nghĩa là cuộc chinh chiến).
 

Chúng ta bị vây bủa bởi tuyên truyền. Thỉnh thoảng nó lộ diện cho ta dễ thấy: Thí dụ cách đây chưa lâu, chính thể quân phiệt Ai Cập đã mở hai trang quảng cáo cho chính sách của họ trên tờ FAZ. Phần lớn sự tuyên truyền len lỏi vào, không bị nhận ra. Ta đặc biệt khó nhận ra, nếu chúng từ những mảnh rời rạc được những cá thể hăng hái tin vào những thứ đó chuyển tiếp đi. Như một virut, tuyên truyền sử dụng những kẻ thành tín này như là những cái máy sao chép.

Tuyên truyền cần làm cho con người ta tin vào điều gì đấy. Thường thì nó là một truyện kể cấp ý nghĩa cho sự việc hiển nhiên. Con người ta khá hay lồng cảm nhận vào trong một câu chuyện, giảm bớt đi cho bản thân việc đưa cái toàn thể vào nghi vấn mà không cần thách thức. Nếu như không có định kiến và những lề thói lặp lại trong suy nghĩ, thì không một ai nhúc nhích trước sự hoài nghi trầm trọng.

 

Hai trong số lề thói lặp đi lặp lại đặc biệt có tác dụng: Qui tắc nghiệm trải và Đức tin. Cả hai dạng thức chinh phục thế giới đều tồn tại song hành trong tất cả mọi nền văn minh, Thần ngôn và Thần thoại; con người ta đóng thuyền độc mộc hay chế tạo máy bay theo những quy tắc trải nghiệm, nhưng mà nếu như họ không biết rằng mình phải giải quyết thách đố ra sao, họ gọi lên các Thần thoại. Thần thoại này cũng lấp đi những lỗ hổng định hướng trong thế giới tư tưởng chính trị. Dạo đó với những cân nhắc này, triết gia Ernst Cassierer (2), ông mất năm 1945, đã giải thích bệnh dịch của những Thần thoại giết người trong thế kỷ 20.
 

Cassier còn bổ sung thêm chút nữa: kể cả Thần thoại cũng đòi hỏi nỗ lực không ngơi nghỉ. Bởi vì Thần thoại bị bào mòn nơi thực tại, cho nên nó luôn phải được gia cố, chống đỡ và tu chỉnh lại – thí dụ như chủ nghĩa Mác-Lênin từng sản sinh ra hàng dãy thư viện đã phải nhọc nhằn cố sức ở mâu thuẫn giữa Thần thoại mang tầm vóc lịch sử và Thực tế.
 

Sự ổn định ngôi nhà bằng cách tuyên truyền này là công việc của Sisyphus, nó không thể là công nghiệp của từng người, mà chỉ có thể là của những tập thể. Của các nhà nước vậy chăng, các đảng, các hãng, các Thinktanks, các nhóm lợi ích, các tổ chức vô chính phủ, hiệp hội, những cộng đoàn tín hữu. Tuyên truyền đòi hỏi tổ chức đi trước.
 

Cái chứng tích sắt đá của thiết chế lập nên nền tảng lần đầu tiên mang cái từ Tuyên truyền đi vào danh nghĩa nằm ở Rom: công sở Palazzo di Propaganda Fide được thành lập vào thế kỷ 17, chính là Cung điện truyền bá Đức tin, quê hương của Học viện Dòng Tên. Mà thế đó nhà thờ chỉ phát minh ra từ ngữ, chứ bản thân không phát minh ra Tuyên truyền. Cái này lâu đời hơn, cổ xưa như nhà nước vậy. Cũng trong thành Roma đó, chỉ cách trước đó có hai thời đại lịch sử thôi, Tuyên truyền của nhà nước đã được khắc vào đá cẩm thạch: Những hoàng đế La mã nhận được những danh xưng thần thánh hóa, thí dụ như dòng chữ tạc vào bia đá đã vinh danh hoàng đế Caracalla sinh năm 1988 là „hoàng đế vĩ đại nhất, bách chiến bách thắng nhất, đẹp lòng thần thánh, dũng cảm nhất, được các chúa thánh sủng ái nhiều nhất, vượt lên trên mọi hoàng đế bởi ân lộc trời ban“ – bất giác người ta phải nghĩ đến Kim Jong Un ở Bắc Triều Tiên.
 

Trong chiến tranh các nhà nước mới tiến hành tuyên truyền đúng nghĩa. Ở thế kỷ 20, sự tiến hành chiến tranh tâm lý đã đạt được những chiều kích không thể tưởng: Cả hai cuộc chiến tranh thế giới cũng là những trận chiến tuyên truyền. Đối với chiến tranh lạnh, điều đó không hề giảm ý nghĩa, tại miền Đông và Tây được dựng nên các thiết chế nhà nước và nửa nhà nước đứng ra quảng cáo cho những hệ thống thù địch với nhau. Chúng tận dụng những phương tiện truyền thông mới như đài và vô tuyến; sau khi chiến tranh lạnh kết thúc một triều đại tiếp đã đến theo cùng Internet.

Chủ nghĩa đa nguyên truyền thông nâng đỡ nền dân chủ.

 

Những xung đột khởi sự, tính cả những xung đột chiến tranh vào đó. Không thể quên sự tuyên truyền lừa đảo của Mỹ trong cuộc chiến Trung Đông lần thứ ba, và không có chút gì thua kém nó là sự bóp méo thông tin từ nước Nga – cả hai đều là những hoạt động tổ chức mang tính nhà nước, nhằm dẫn dụ hàng triệu khán thính giả vào u mê với sự tiếp tay của thông tin đại chúng nắm giữ trong tay. Mới đây tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, giai đoạn này đã được nhìn nhận lại một cách phê phán, chí ít bởi một phần công luận đã muốn biết rằng tại sao những nhà báo khả kính đã lặp lại tất cả những điều lừa mị này.

Báo chí bị qui kết rằng, đã kề vai sát cánh với những người nắm quyền lực chính trị lập nên một tập đoàn cấu kết. Mới gần đây thôi, Jürgen Habermas (3) đã chẳng cay độc nói trên tờ Süddeutsche Zeitung rằng „ Sự biến hóa của báo chí cũng góp phần gây mê công luận hậu dân chủ trở thành một thứ làm báo săn sóc, tay trong tay cùng với giai cấp chính trị chăm lo cho sự dễ chịu của khách hàng“. Ít ra người ta có thể đọc cái câu phê phán này trong một tờ báo, kế đó báo chí tiếp tục trích dẫn câu này. Nhìn chung qua đó câu này không bị sai nghĩa.

 

Nguy cơ của sự dàn xếp kín đáo giữa phương tiện truyền thông và quyền lực tồn tại không có gì phải bàn cãi. Chẳng hạn như các nhà báo phụ thuộc vào việc đón nhận tin tức từ các nhà chính trị, điều đặt tiền đề cho một quan hệ tin cậy đi trước: Từ đây cho tới quan hệ bằng hữu chén chú chén anh chỉ còn là một bước nhỏ nhưng rất hệ trọng.
 

Đó không phải là điều nhà ngữ học và nhà phê bình truyền thông Noam Chomsky (4) ngụ ý với „mô thức tuyên truyền“ của ông, được đưa ra thảo luận từ một phần tư thế kỷ.
 

Cùng với nhà kinh tế truyền thông Edward S. Herman, Chomsky dựa vào mô hình Mỹ phân tích phương tiện truyền thông như là „những công xưởng đồng thuận“ thể theo lợi ích của những kẻ có quyền lực xã hội. Theo lý thuyết của ông, tin tức đã được lọc trước khi công bố, vẻ như không có một âm mưu nào đứng sau đó; sự lựa chọn thông tin dung hòa quyền lực thực ra vận hành bản năng hơn. Thí dụ không có một phương tiện truyền thông nào, dạo đó Chomsky viết, có thể lâu dài dàn trận cưỡng lại sở thích và thế giới tư tưởng của người chủ sở hữu nó. Ngoài ra sự lựa chọn nhân sự của những ban biên tập cũng đã dàn xếp cho một sự dung hòa cơ bản ít hay nhiều ở tầm rộng khắp, mà nội trong phạm vi đó công việc của họ vận động.
 

Như vậy đó. Nếu giả như đó là tất cả sự thực, sự thực sẽ không đánh sập xuống. Tuy nhiên cũng được tính về sự thực - ít nhất trong các nền dân chủ- việc nhiều phương tiện truyền thông cạnh tranh nhau giành người đọc. Những phương tiện đại chúng này cuối cùng khác biệt nhau, xét cho cùng, bởi độ dàn trải ý kiến công luận và sự lựa chọn nhân sự. Chính vì vậy trong những phương tiện đại chúng đó, những người như Chomsky thường xuyên lên tiếng.
 

Chắc chắn rồi, những phương tiện truyền thông cạnh tranh nhau không luôn luôn gây ảnh hưởng bằng nhau, và đằng sau chúng không luôn có lực lượng tư bản như nhau hậu thuẫn, và sự đa nguyên phương tiện truyền thông ở từng nước rất khác nhau; và cũng phải luôn luôn tranh giành lại nó, ngay cả trong nội bộ các Ban Biên tập. Nhưng nó vẫn nguyên còn là một sự chuyện hiển nhiên mang tính chính trị. Về danh nghĩa tại nước Đức, mỗi một luận điểm đều đến tai công luận. Càng đúng lúc, từ khi có Internet.
 

Có rất nhiều chiến lược khác nhau nhằm khẳng định mình trong thế giới truyền thông đa giọng này. Đối với một số chào mời, sự đàng hoàng ra đầu ra đũa không thuộc về lời hứa nhằm bán hàng, nhưng những chào mời khác trái lại bằng mọi giá không được đánh mất sự đáng tin cậy. Tuy nhiên kết cục cuối cùng chính độc giả, khán giả hay là người sử dụng sẽ định đoạt về sự tiếp tục tồn tại của một phương tiện truyền thông. Ở trong đó một lần nữa hiện ra sự khác biệt của Làm báo với Tuyên truyền. Về sự tồn tại của nó chỉ một mình những người có quyền lực định đoạt.
 

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ tiếng Đức 
Nguyên văn tên bài: Tuyên truyền: Chúng ta bị bao vây, đầu đề do người dịch đặt lại
Nguồn: ZEIT ONLINE

Chú thích của người dịch:


(1) Gero von Randow (sinh năm 1953): Nhà trước tác, biên tập viên của tờ Die Zeit (Thời đại) 
(2) Ernst Cassierer (1874-1945): Triết gia Đức
(3) Jürgen Habermas (sinh năm 1929): Triết gia và nhà xã hội học người Đức
(4) Noam Chomsky (sinh năm 1928) là nhà Ngôn ngữ học, nhà triết học, nhà khoa học nhận thức, nhà logic học, nhà bình luận chính trị, và nhà hoạt động người Mỹ.

 

Tranh của Salvador Dalí (1904-1989): Họa sĩ, nhà đồ họa và điêu khắc người Tây Ban Nha.

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

Một tối mùa đông

Georg Trakl (1887-1914)

 
 Tranh màu nước của © Emil Nolde (1867-1956), họa sĩ Biểu hiện Đức

Mỗi khi tuyết chạm rơi khung cửa
Và chuông chiều rền rã hồi ngân
Nhiều người sẵn bàn ăn bày biện
Và cả nhà xúm xít quây quần.

Còn vài người vẫn đang hành khất
Nẻo tối tăm về tới cổng nhà
Cây Ơn Phước nở vàng ròng sắc
Từ phù sa lạnh đất ra hoa.

Người lữ khách bước vào im ắng
Bậu cửa trơ thành đá đớn đau
Trên bàn óng rượu vang và bánh
Vẻ long lanh tinh khiết sáng màu.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức


Ein Winterabend

Georg Trakl (1887-1914)

Wenn der Schnee ans Fenster fällt,
lang die Abendglocke läutet,
vielen ist der Tisch bereitet
und das Haus ist wohlbestellt.

Mancher auf der Wanderschaft
kommt ans Tor auf dunklen Pfaden.
Golden blüht der Baum der Gnaden
aus der Erde kühlem Saft.

Wanderer tritt still herein;
Schmerz versteinerte die Schwelle.
Da erglänzt in reiner Helle
auf dem Tische Brot und Wein.

Bản tiếng Anh

A Winter Evening

Georg Trakl (1887-1914)

When the snow falls against the window,
The evening bell rings long,
The table is prepared for many,
And the house is well cultivated.

Some in their wanderings
Come to the gate on dark paths.
The tree of grace blooms golden
From the earth's cool sap.

Wanderer, step silently inside;
Pain has petrified the threshold.
There in pure radiance
Bread and wine glow upon the table.

© Translated by Jim Doss & Werner Schmitt

Chú thích của người dịch:

Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Tòan bộ thi phẩm của ông mang dấu ấn của hòai cảm, u sầu và hướng tìm Thiên Chúa. Có thể kể Cái chết, Suy đồi và sự Suy tàn của Tây Phương như những hàm ý chính ở thơ trữ tình sâu xa của Georg Trakl đầy những biểu tượng và ẩn dụ.

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905 Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng Latinh, Hy Lạp và Tóan), không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakau sau khi dùng cocain quá liều.

Tranh thuốc nước của họa sĩ biểu hiện Đức Emil Nolde (1867-1956).

Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

Điều tệ nhất là giám hộ

Wolf Bierman

„Có bao nhiêu người tuyệt vời ở CHDC Đức“, Wolf Biermann gần đây mới biết điều này từ hồ sơ Stasi (An ninh quốc gia - ND) của mình: Một nữ mật vụ cần phải nhử ông lên giường, đã chỉ còn là cái đinh gỉ đối với An ninh quốc gia. Cô ta đã phải lòng ông, như nhà thơ và ca sĩ kể lại trong cuộc phỏng vấn của SPIEGEL ONLINE.


© Marc Chagall (1887-1985) họa sĩ Pháp gốc Nga

SPIEGEL ONLINE : Ông không tin vào Chúa, nhưng Chúa kính yêu đóng một vai trò lớn trong những bài thơ mới của ông. Thậm chí ông còn viết một cuốn Nhập môn tôn giáo tuổi thiếu nhi cho con gái năm tuổi của ông: Đầu đuôi câu chuyện thế nào nhỉ?

Biermann: Tôi được mẹ tôi – một người nữ cộng sản giáo dục cho tính kiêu căng đối với những người tin vào Thượng đế. Bất luận ngạch nào, Tin lành, Công giáo, Do thái giáo. Nhưng mà qua việc tôi sa vào CHDC Đức, tôi đã có lợi thế sống trong một đất nước ở đó tín đồ Thiên chúa giáo bị theo dõi. Điều đó tự động dẫn đến hệ luận rằng những người thuần túy theo thống kê kiên định theo Thiên chúa giáo là những người đứng đắn và không là lũ lợn. Nhưng mà tỉ lệ này cuối cùng lại sai lệch đến một phần ba, bởi vì Nhà thờ Tin lành chứa đầy mật vụ của Stasi, trước hết ở tầng chóp bu.

SPIEGEL ONLINE: Mặc dù vậy CHDC Đức đã sụp đổ.

Biermann: Vâng, vì những con người nhỏ bé đã không hùa theo nữa. Thường xuyên tôi tiếp xúc với những tín đồ Thiên Chúa bình thường đã gặp rắc rối trong nghề nghiệp của mình hoặc không được phép học hành nghiên cứu. Đối với cha mẹ họ, đó là một áp lực nặng nề. Con họ đạt điểm cao nhất trong kỳ thi tú tài, và lại không được phép học đại học. Hoặc thậm chí còn không được phép làm tú tài toàn phần. Thế thì, con cái sẽ ra gì? Một người thợ sắt. Tốt, một người thợ sắt cũng là chút gì đó quan trọng. Trong Kinh thánh, Thánh Cả Giuse vốn là người thợ mộc. Nhưng đối với những người này, điều đó là một gánh nặng tồi tệ, và vì thế tôi học hỏi được rằng, sự kiêu căng đối với những người theo tín ngưỡng là một sự ngu xuẩn. Quan trọng ở việc họ ứng xử can đảm và đứng đắn trong xã hội hay là không. Và nếu như đức tin, tin vào cái gì cũng thế, khích lệ họ, cấp cho họ sức lực, thì hóa ra việc tranh cãi với họ về những điều tối hậu của đức tin chẳng độc địa hay sao. Chính vì thế, tất nhiên ta nháy mắt nói với nhau, trong một cuốn sách mới rồi cũng có một bài thơ „Người ta phải tin“, bởi vì nếu như thực lòng, tôi có thể thú nhận rằng, mình là một con người theo tín ngưỡng. Chỉ có điều đức tin của tôi nó tầm phào hơn, tôi tin vào Con người. Ông đừng xoáy hỏi tôi sâu hơn về điều đó, bởi vì chỉ hai câu sau đó ông đã phát hiện ra, đức tin này phi lý hơn là đức tin đặt vào Chúa.

SPIEGEL ONLINE: Mặc dù thế chúng tôi vẫn vặn hỏi, làm sao sau khi đọc chục ngàn trang báo cáo của mật vụ trong hồ sơ Stasi, ông còn tin vào điều tốt lành trong con người?

Biermann: Đời là thế, thế nên người ta không được phép hình dung về những bài học hồ sơ An ninh như thể Heinrich Heine dòm vào chiếc bô của nữ thần Harmonia – hoạt cảnh nổi tiếng vào hồi kết của Truyện cổ tích mùa đông. Nơi ông ấy chỉ mô tả mình ngửi thấy tất thảy những gì và giấu đi những gì ông nhìn ra tất cả khi ông muốn hướng mắt vào tương lai. Khi đọc hồ sơ an ninh của tôi, tôi đã không ngó vào cái bô hay là ngửi, mà tôi chỉ ngạc nhiên thấy ở CHDC Đức đã có bao nhiêu con người can đảm thông minh và tuyệt vời làm sao, nhiều hơn là tôi nghĩ. Bởi chăng trong một hệ thống toàn trị như thế, theo lô-gic, những người thông thái, can đảm đã phải che giấu những hành động của mình mà không phải khoe mẽ công khai như trong một nền dân chủ.

SPIEGEL ONLINE: Ông hàm ý điều gì vậy?

Biermann: Thí dụ An ninh Stasi đã suỵt một nữ diễn viên trẻ xinh đẹp nhắm vào tôi. Cô ấy cần phải lên giường tôi và thám thính. Bốn lần tôi đã mời cô ấy đi. Nhưng mà lần thứ năm, vâng rồi là thế đấy. Và trước đó, sát lúc tôi đọc hồ sơ An ninh sau Bước ngoặt (1), người đàn bà ấy đã viết cho tôi:“ Wolf yêu quí, rồi anh sẽ cũng tìm thấy tên em“. Và tôi đã tìm ra cái gì vậy: Với An ninh cô ấy hoàn toàn vô tác dụng. Bởi vì cô ấy đã nói với người sĩ quan chỉ đạo của mình rằng: tôi đã phải lòng cái ông Biermann này. Và như vậy vai trò của cô là cộng tác viên không chính thức đã đi tong. An ninh (Stasi) có số mật vụ phụ trách theo đầu người nhiều gấp 20 lần so với Quốc xã. Liệu như vậy CHDC Đức tồi tệ gấp 20 lần so với chế độ Quốc xã? Tất nhiên không. Bộ máy mật vụ khổng lồ với rất nhiều những thằng đểu được trả lương cao không thể tin nổi, bất kể là sĩ quan chuyên trách, hay là cộng tác viên không chính thức là một bằng chứng hùng hồn chỉ ra việc đã từng có rất nhiều người khiến họ phải do thám và áp bức. Vâng và điều đó cũng thuận tình nói giùm cho con người vùng CHDC Đức. Nếu như người ta đọc thấy điều này trong hồ sơ An ninh, người ta sẽ không bị lay chuyển trong niềm tin vào con người. Như thế ta có một bài học mang tính xây dựng theo một cung cách đau đớn và quái gở.

SPIEGEL ONLINE: Ông có thấy rằng thực trạng tái thiết miền Đông chính ra cũng mang tính xây dựng? Hay là bị ta thán quá nhiều?

Biermann: Có và không. Nếu như người ta suy xét thấy sự khổ đau của riêng mình luôn là những đau thương lớn nhất. Nếu như tôi đứt cụt mất ngón tay khi hái táo (Biermann giơ bàn tay phải cụt mất đốt móng ngón út).

SPIEGEL ONLINE: Chuyện này xảy ra bao giờ vậy?

Biermann: Cách đây chừng một năm. Lần đầu tiên trong cú sốc con người ta trải nghiệm qua điều ấy tồi tệ hơn so với việc 8000 người Hồi giáo bị tàn sát hoặc tên lửa từ bên Lebanon bắn sang Israel nhắm vào người sống qua cuộc Tận thiêu (Holocaust). Trong phép tính kinh tế tâm hồn, những đau khổ riêng tư luôn là những đau thương lớn nhất.

SPIEGEL ONLINE: Chơi guitar không ngón út, ông thấy thế nào?

Biermann: Thì thế đấy, bây giờ khá rồi, không là gì cả. Chỉ để mà cười. Nhưng mà nếu phải ngón út bàn tay trái, hẳn tôi đã suy sụp rồi bởi như thế thì tôi không thể chơi guitar được nữa, không thể biểu diễn concert được, trong khi ngón út tay phải không bao giờ được cùng chơi và với năm tháng đơn giản là nó bị xúc phạm. Ông hãy thử hình dung trong tâm tưởng xem, đối với ngón út bàn tay phải, vâng, cũng phải đứng ra trong ánh sáng chiếu rọi trên sân khấu. Gã Biermann hát theo đàn, người nghe vỗ tay theo, trả tiền vào cửa, từ tiền hỏa hồng mua bánh mì cho trẻ con và, nào có ai không có phần ở đó. Ngón út bàn tay phải, tên này thực ra phải đi bác sĩ tâm thần, phải nằm xuống ghế bành. Nhưng không được, bởi vì nó gắn chặt vào tôi, và đến lúc nào đó nó mất hết cả kiên nhẫn và nói: „Tôi đi trước đây“.

SPIEGEL ONLINE: Nó có lại lên tiếng gì không chứ?

Biermann: Nó lên tiếng từng ngày, bởi vì đau nếu tôi nắm tay lại. Nó không mau lành như bác sĩ phẫu thuật nói với tôi. Nói thêm về bác sĩ phẫu thuật: Ở Wandsbek, nơi sự cố xảy ra, thì cái mẩu lìa ngón tôi, giờ đây chẳng còn, đã treo lơ lửng ở một đám bầy nhầy da, nhưng mà nó không bị cắt rời, mà chỉ là cắt dập, vì lý do này ông ấy cũng không thể nào khâu nối vào được. Trong khi làm phẫu thuật, ông ấy liên tục nói với tôi, và vì tôi không nên nhìn vào đó, họ đã căng một tấm vải xanh ở giữa. Bởi thực sự tôi muốn biết ông ấy làm cái gì. Ông ấy nói:“ Này ông Biermann ơi, bây giờ tôi lấy cái kìm gắp xương đây!“.

SPIEGEL ONLIE: Nghe chuyên nghiệp đấy chứ.

Biermann: Kế đó ông nói:“ Thế nhé ông Biermann, cuối cùng thì bây giờ tôi cắt đi, sau đó thì rời ra hẳn“. Và bởi ông ấy không nghĩ ra cái gì riêng biệt hơn là hỏi:“ Thế thì bây giờ bỏ cái ngón tay này đi đâu?“. Liền cô y tá nhỏ nhắn xinh đẹp Stefanie – ông thấy đấy, đối với sự kiện tôi vẫn còn cân não đặng để ý thấy cô ấy xinh đẹp nhỏ nhắn, tóc màu đen và có tên là Stefanie, hẳn rằng tôi hãy còn khá khỏe. Sau đó Stefanie đã nói một câu búa bổ trong thổ âm Hamburg giọng êm mát, dễ chịu : „Bỏ nó vào một thùng rác đặc biệt“. Đương nhiên là thế đó, người dân phía Đông ở CHDC Đức đau đớn nhiều hơn vì cái ngón tay đứt mất, hơn là hàng triệu người bị chặt đầu ở những nơi khác còn lại của thế giới.

SPIEGEL ONLINE: Hay là ở Ba Lan cách đây vài cây số đi tiếp, nơi mọi người rõ ràng sống khổ hơn, nhưng mặc dù vậy ở đó có ít lời than vãn hơn.

Biermann: Nếu như người ta hiểu ra rằng, người ta không chỉ thuộc về một bầy mà bên cạnh đó còn thuộc về nhân loại, thì người ta nhìn nhận nhiều thứ sẽ khác. Tôi không biết hàng bao nhiêu nghìn tỉ được bơm vào vùng phía Đông này.

SPIEGEL ONLINE: Cho đến nay chừng 1500 tỉ Euro.

Biermann: Kế hoạch Marchall(2) sau Đại chiến thế giới thứ II giá chỉ đáng một phần nhỏ tí tẹo so với tổng số này và tuy thế đã là một cú hích cho sự đột biến kinh tế ở Đức, Anh, Ý và Pháp. Tất nhiên trong chừng mực đó những quốc gia thuộc khối hiệp ước phía Đông tan rã gồm Ba Lan, România, Bulgaria và Tiệp ghen tị với người Đông Đức vì có người anh giàu có thể cung ứng cho họ. Nhưng đồng thời người Ba Lan sướng hơn người Đông Đức bởi vì họ không bị dúi từ tình trạng chịu giám hộ này sang tình trạng chịu giám hộ kia. Thiệt hại lớn nhất do chính thể toàn trị phía Đông đã gây ra cho con người không phải là nghèo đói, bởi vì cái này, vâng, chỉ là tương đối. Trên chính thế giới này, các dân tộc khác hẳn thích được nghèo như Ba Lan. Nếu được vậy phải chăng họ là những người giàu có. Thiệt hại tàn tệ nhất, chính là con người bị giám hộ và không được đứng ra đảm trách cho chính mình. Các dân tộc có thể khắc phục sự thiệt hại này ở mức khá hơn, nếu như họ chẳng có ai cung ứng cho hai ngàn tỉ Mark hay Euro hay Dollar. Điều này củng cố nỗi khổ đau chính.

SPIEGEL ONLINE: Trong nền chính trị Đức, với những sự thật nêu trên họ không có cơ may gì...

Biermann: Không, may là thế. Vâng, chính vì lẽ đó tôi cũng có thể nói lên, phải nói lên điều ấy bởi vì tôi không ở trong tình thế kinh khủng là muốn được người ta bầu ra. Điều này phải có một ích lợi chứ. Sự thật ở chỗ này: Nếu tôi là nhà chính khách và muốn được vào quốc hội, tôi không nói điều như thế, bởi nếu vậy, phải chăng tôi là người chất phác. Nhưng vì tôi không phải vào chốn đó, phải chăng tôi là thằng đểu, nếu như tôi không nói như tôi làm. Mà thế chứ, như mỗi con người, ở một cách thức nào đó tôi muốn mình hữu ích cho người khác, điều này thế đó là một trong những thú đam mê lớn nhất của chúng tôi.

SPIEGEL ONLINE: Là người vùng Hamburg ông đã đi sang Đông Berlin, sau đó với tư cách là công dân CHDC Đức ông di cư sang phía Tây. Thời gian gần đây ông thường xuyên ở Israel, nơi ngày một nhiều hơn ông coi là tổ quốc và miêu tả nơi đó „thân thương xa lạ“. Tại sao vậy?

Biermann: Bởi vì ở đó có là nơi sinh sống của rất nhiều người mà tôi chia sẻ đời mình với họ, so với người Đức là những người dính dáng nhiều hơn tới câu chuyện gia đình nhỏ riêng tư mà tôi đầu thai vào đó. Phần đông người Đức từng là người quốc xã, và do sự tình cờ của đầu thai nên tôi xuất thân từ hai thiểu số: Cộng sản và Do thái. Điều đó không những không là công trạng mà cũng chẳng là một tội tình, vâng cũng tương tự không thể là công trạng hay tội tình, nếu như con người ta được một đại úy SS thụ thai và lớn lên trong gia đình đó. Bởi lẽ không một ai lựa chọn được điều đó. Nhưng điều này có kèm theo hệ lụy. Ở Israel có nhiều người Do thái sinh sống, xưa họ từng chạy trốn khỏi nước Đức, không phải vì họ, một cách vô điều kiện muốn sang đất nước của người Ả Rập và lạc đà, mà bởi vì họ muốn ở lại cõi đời. Họ đã kinh hoàng khi họ nhìn thấy những cây cọ và cảm cái nắng oi bức, và họ bị những người Do thái sống lâu đời ở đó đón tiếp rất không thương xót. Người ta nói với họ:“ Ông từ nước Đức hay từ Đại Do thái tới đây“. Một câu ngắn này tuy thế soi sáng được vấn đề. Nhưng mà sau đó như thời thế di cư vào theo năm tháng, thế đó người ta ở lại đất nước của người Ả Rập và lạc đà, lấy vợ, sinh con, chúng lớn lên bằng tiếng Hebrew, không còn nói từ tiếng Đức nào nữa và như thế có cơ man người tại Israel sống một cuộc đời đáng ra cha tôi đã sống, nếu như ông ấy kịp thời di cư sang nước ngoài thay vì việc ở lại đây trên bến cảng Hamburg phản kháng lại ông Hitler.

SPIEGEL ONLINE: Ở đó ông hát tiếng Đức, người ta có hiểu lời hát không?

Biermann: Ôi chao, có chứ. Tôi hát, chơi đàn, -ít mất đi một ngón tay- piano và guitar và mọi người chăm chú nghe. Thế ông hiểu gì? Người ta hiểu gì chứ nếu Bob Dylan (Biermann hát): „"Hey! Mr. Tambourine Man, play a song for me/ In the jingle jangle morning I'll come followin' you."

SPIEGEL ONLINE: Từ đất Israel ông đã trách cứ tờ SPIEGEL và Stern, bằng những phóng sự đã tăng cường những khuynh hướng bài Do thái. Ở đây ông không cường điệu lên chứ?


Biermann: Ông hít thở không khí chung ở Đức như tất cả chúng tôi. Đó không phải là sự bất lực cá nhân, ấy chưa nói đến ý đồ ác, sự đểu cáng. Ông Goethe đã nhìn thấu vấn đề. Ông ấy nói, không người nào thoát hẳn khỏi những điều xuẩn ngốc của thời đại. Đó là một lời thông thái và mặc dù vậy đúng đắn, tôi muốn nói, lời nói đó không có sự thông thái quán thế là thứ xét về căn bản không nói lên điều gì cả. Nó dạy cho chúng ta biết rằng tất cả chúng ta, ở những mức độ khác nhau thoát ra những điều ngu xuẩn của thời đại, và nếu như bây giờ tôi đối đầu chống lại, thì tôi biết rất rõ tôi không thể nào đi con đường trung đạo vàng son được. Tôi phải cường điệu sang hướng khác, và vì lý do vệ sinh tôi phải biết, rằng sự đời là thế, nếu không thì chẳng hóa ra tôi đóng vai Thượng đế vốn tôi không thể là. Tất cả chúng ta đều nằm lệch chỗ, chừng nào chúng ta còn sống. Người chết biết tất cả thấu đáo hơn, vâng nhưng người ta không bao giờ vào hội đàm được với họ.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên bản tiếng Đức
Nguồn: SPIEGEL ONLINE
 

Chú thích của người dịch:

Wolf Biermann: Ca sĩ, sáng tác bài hát, nhà thơ, sinh năm 1936 tại Hamburg, con trai một người cộng sản Do thái chết trong trại tập trung Auschwitz *1950 đại diện CHLB Đức ông tham gia Liên hoan thanh thiếu niên thế giới lần đầu tiên tại CHDC Đức *1953 di cư sang Cộng hòa dân chủ Đức (CHDCĐ), học Triết học, Kinh tế - Chính trị học và Toán tại trường Tổng hợp Humboldt (1955-1963) *1957-1959 Trợ lý đạo diễn ở đoàn kịch Berliner Ensemble *1960 Bắt đầu viết thơ và sáng tác bài hát* Xây dựng nhà hát kịch Công nhân và Sinh viên *1962 In tập thơ „Những bài thơ tình“ *1963 Bắt đầu tình bạn với nhà khoa học bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất của CHDC Đức Robert Havermann. *1965 bị chính quyền CHDC Đức cấm biểu diễn và cấm xuất bản với tội danh „Phản bội giai cấp“ và „Tục tĩu“, sau những buổi trình diễn và chuyến du ca dọc CHLB Đức, và đặc biệt sau khi ông in tập thơ Drahtharfe (Thụ cầm dây thép) và ra đĩa hát *Tháng 12 năm 1965 Trung ương Đảng SED (Công nhân Xã hội thống nhất Đức) ra nghị quyết cấm ông biểu diễn và xuất bản. *Những tập thơ ông xuất bản thuộc về những tác phẩm của văn học hậu chiến được độc giả mua nhiều nhất *Sự tước đoạt quốc tịch Wolf Biermann đẩy ông sang Tây Đức vào năm 1976 gây ra sự phản kháng rộng lớn trong giới trí thức và sinh viên hai miền nước Đức, và từ đó ông như biểu tượng cho giới trí thức đối lập, phê phán chế độ chống lại chủ nghĩa toàn trị của CHDCĐ. *1984 Giảng viên thỉnh giảng tại Ohio State University/USA. 1993-1995 Giáo sư thỉnh giảng tại trường Tổng hợp Heinrich-Heine-Universität *Nhận nhiều giải thưởng Văn chương *2006 Nhận Huân chương chữ thập Liên bang – Bundesverdienstkreuz và 1907 được bầu làm công dân danh dự của Berlin.


Cuộc phỏng vấn thực hiện bởi Andreas Borcholte (39 tuổi) und Claus Christian Malzahn (51 tuổi), phóng viên chuyên trách các mảng Chính trị và Văn hóa của tờ Spiegel và FAZ.

(1) Bước ngoặt (Wende): Chỉ quá trình thay đổi trong giai đoạn 1989/1990 chấm dứt sự thống trị độc tài của đảng cộng sản SED của CHDC Đức và hình thành nền dân chủ nghị viện, tạo cơ sở cho sự thống nhất hai miền nước Đức.

(2) Kế hoạch Marshall (Marshall Plan) là một kế hoạch trọng yếu của Hoa Kỳ dưới hình thức viện trợ kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật có tổng giá 17 tỷ đô la Mỹ, nhằm tái thiết và thiết lập một nền móng vững chắc hơn cho các quốc gia Tây Âu, đẩy lui chủ nghĩa cộng sản sau Thế chiến thứ hai.

(3) Trong nguyên tác không dịch: Này anh chàng Tambourine ơi, hãy tấu lên cho tôi khúc nhạc/ Trong thanh âm leng reng của buổi sáng/ Tôi sẽ theo anh.
 

Tranh của Marc Chagall (1887-1985) họa sĩ Pháp gốc Nga-Do thái, sống lưu vong tại Pháp.

Bài đăng Văn Việt

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...