Thứ Tư, 11 tháng 10, 2017

Những giấc mơ

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Tranh Edvard Munch (1863 – 1944): Họa sĩ Na Uy


Rồi đêm đến, giàu bạc vàng tế nhuyễn
điểm trang viền xiêm biếc xanh ngà ; -
chìa đôi tay của Thánh Mẫu Madonna
đêm hiền hòa trao tôi một giấc mộng.

Sau đêm tiếp tục đi, thực thi nghĩa vụ
dọc thành phố với bước êm ru
mang theo đi tâm hồn đứa trẻ ốm
phía bên kia, - như công xá giấc mơ.
 

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Träume

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Es kommt die Nacht, reich mit Geschmeiden
geschmückt des blauen Kleides Saum; -
sie reicht mir mild mit ihren beiden
Madonnenhänden einen Traum.

Dann geht sie, ihre Pflicht zu üben,
hinfort die Stadt mit leisem Schritt
und nimmt, als Sold des Traumes, drüben
des kranken Kindes Seele mit.

1913

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin.  Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga.  Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Đứa trẻ ốm - Tranh của Edvard Munch (1863 – 1944): Họa sĩ Na Uy

Thứ Bảy, 7 tháng 10, 2017

Elisabeth

Hermann Hesse (1877-1962)

Tranh © Sandro Botticelli (1445-1510): Họa sĩ Ý

Xuân tinh sắc, sáng tươi thanh tú
Trên trán em, trên miệng và đôi tay
Phép lạ vàng son, anh tìm thấy đây
Ở Florence trên những hình ảnh cũ.


Em từng sống vào thời tiền sử
Em hình hài của tháng Năm tuyệt trần
Là nàng Flora trong xiêm chấm hoa vân
Vẽ nên em, Botticelli từng vẽ.


Cũng em là nàng, lời chào nhắn
Đã xiêu lòng Dante trẻ, thi nhân
Và vô thức nơi em đôi bàn chân
Biết con đường dẫn qua thượng giới.


Như một làn mây trắng
Dừng lại trên trời cao
Xa vời, ngần trắng, đẹp sao
Là em, Elisabeth.


Em vừa ngước nhìn để ý
Mây đi, du lãng lặng lờ
Vậy mà qua giấc em mơ
Mây đi trong đêm đen tối.


Mây đi lung linh ánh bạc
Không ngơi, không nghỉ dặm trường
Em mang sầu nhớ quê hương
Ngọt ngào theo làn mây trắng.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Elisabeth

Hermann Hesse (1877-1962)

Dir liegt auf Stirne, Mund und Hand
Der feine, zärtlich helle Lenz,
Der holde Zauber, den ich fand
Auf alten Bildern zu Florenz.

Du lebtest schon einmal vorzeit,
Du wunderschöne Maigestalt,
Als Flora im beblümten Kleid
Hat Botticelli dich gemalt.

Auch bist du jene, deren Gruß
Den jungen Dante übermannt,
Und unbewußt ist deinem Fuß
Der Weg durchs Paradies bekannt.


Wie eine weiße Wolke
Am hohen Himmel steht,
So weiß und schön und ferne
Bist du, Elisabeth.

Die Wolke geht und wandert,
Kaum hast du ihrer acht,
Und doch durch deine Träume
Geht sie in dunkler Nacht.

Geht und erglänzt so silbern,
Daß fortan ohne Rast
Du nach der weißen Wolke
Ein süßes Heimweh hast.

1900

Chú thích của người dịch:

Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói đồng hoang) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.

Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. *Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). *Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. *Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. *Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. *Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. *1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. *Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. *Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962

Tác phẩm:

Thơ:

– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ

Văn xuôi:

– Peter Camenzind (Peter Camenzind, 1904), tiểu thuyết
– Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết
– Siddhartha (Siddhartha, 1920), tiểu thuyết
– Sói đồng hoang (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết
– Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết
– Trò chơi hạt ngọc thủy tinh (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết

Tranh của Sandro Botticelli (1445-1510): Họa sĩ Ý thời Tiền Phục Hưng.

Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

Rã rời

Georg Trakl (1887 - 1914)
   
© Max Ernst (1891-1976): Họa sĩ Đức

Thối rữa của những thiên đường tạo ra từ mơ mộng
Phả quanh trái tim mỏi mệt đầy buồn rầu
Sự ghê tởm chỉ no nê từ mọi sự ngọt ngào
Và điều này chảy cạn máu trong đớn đau tồi tệ

Giờ đây những giai điệu ảm đạm tuyệt vọng
Tấu lên theo nhịp những điệu vũ tắt dần
Trong lúc những khóm tinh đẩu của niềm hy vọng cũ
Ở bàn thờ vắng từ lâu thần thánh, héo tàn

Từ ngất ngây của rượu vang và những hương vị
Còn lại cảm giác ngượng ngùng áp đảo trong anh
Ngày hôm qua trong ánh hồi chiếu mỏng manh -
Phiền muộn xám xịt của ngày thường nghiền anh tan nát.

®© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Ermatten

Georg Trakl (1887 - 1914)

Verwesung traumgeschaffner Paradiese
Umweht dies trauervolle, müde Herz,
Das Ekel nur sich trank aus aller Süße,
Und das verblutet in gemeinem Schmerz.

Nun schlägt es nach dem Takt verklungner Tänze
Zu der Verzweiflung trüben Melodien,
Indes der alten Hoffnung Sternenkränze
An längst entgöttertem Altar verblühn.

Vom Rausch der Wohlgerüche und der Weine
Blieb dir ein überwach Gefühl der Scham -
Das Gestern in verzerrtem Widerscheine -
Und dich zermalmt des Alltags grauer Gram.

Chú thích của người dịch

Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Tượng trưng, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Tòan bộ thi phẩm của ông mang dấu ấn của hòai cảm, u sầu và hướng tìm Thiên Chúa. Có thể kể Cái chết, Suy đồi và sự Suy tàn của Tây Phương như những hàm ý chính ở thơ trữ tình sâu xa của Georg Trakl đầy những biểu tượng và ẩn dụ.
„ Hồ như không thể định vị tác phẩm thơ của ông một cách rõ rệt theo lịch sử văn học nội trong văn chương của thế kỷ 20“ (Wikipedia)

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905 Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng Latinh, Hy Lạp và Tóan), không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocain quá liều.

Tranh của Max Ernst (1891-1976): Họa sĩ, nhà đồ họa và điêu khắc Đức, sáng lập nhóm Dada ở Cologne.

Chủ Nhật, 1 tháng 10, 2017

Cuộc khởi hành (I)

Phạm Kỳ Đăng
 
Tranh©Camille Pissarro (1830-1903): Họa sĩ Pháp


Khởi hành: một làn gió dấy vờn
những bông bồ công anh héo rũ
nhòa nhạt rung, như hồi niệm vừa qua
những hàng mi hắt hiu
khép lại trong day dứt -
dồn đốt sống con đường,
lá trút nhọc nhằn
nỗi lá.

Xe lăn bánh. Khôn hàn tiết giá
Trong tâm trí một dãy trằn trọc lửa
Cháy kỳ cùng thiêu đốt tâm can
Người đánh xe lầm lụi giật dây cương
- Sinh ly và tử biệt
Cùng thác đổ chân trời mù mịt.

Đồng thời, trong ám ảnh mùa thu
Ngả nghiêng trên ngả vàng tiêu tán
Một cỗ xe từ tạ rẽ sương mù.

2017

Tranh của © Camille Pissarro (1830-1903): Họa sĩ tiêu biểu, giàu sáng tạo của phái Ấn tượng (Impressionism) Pháp.
 

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...