Thứ Năm, 29 tháng 3, 2018

Thành phố lạ

Hermann Hesse (1877-1962)   

Tranh © August Macke (1887-1914): Họa sĩ Đức

Sao lạ lùng, cảnh làm buồn thế đấy:
Qua một thành phố lạ một lối xuyên
Thành phố nằm lặng ngủ trong đêm
Có những mái nhà trăng soi lóng lánh.

Và trên nóc tháp và chái nhà phiêu lãng
Một sự trốn chạy lạ kỳ của những đám mây
Yên lặng và vĩ đại như một vị thần đây
Không quê hương đi tìm quê quán.

Nhưng anh, bất giác lòng cảm thán
Hiến dâng mình cho phép lạ đớn đau
Và buông tay đặt gói đồ xuống
Và khóc hoài và nức nở dài lâu.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Fremde Stadt

Hermann Hesse (1877-1962)

Wie das so seltsam traurig macht:
Ein Gang durch eine fremde Stadt,
Die liegt und schläft in stiller Nacht
Und mondbeglänzte Dächer hat.

Und über Turm und Giebel reist
Der Wolken wunderliche Flucht
Still und gewaltig wie ein Geist,
Der heimatlos nach Heimat sucht.

Du aber, plötzlich übermannt,
Ergibst dem wehen Zauber dich
Und legst Dein Bündel aus der Hand
Und weinest lang und bitterlich.

Chú thích của người dịch:

Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói đồng hoang) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.
Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.
Tác phẩm:
Thơ:
– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ
Văn xuôi:
– Peter Camenzind (Peter Camenzind, 1904), tiểu thuyết
– Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết
– Siddhartha (Siddhartha, 1920), tiểu thuyết
– Sói đồng hoang (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết
– Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết
– Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.

Tranh của August Macke (1887-1914): Họa sĩ nổi tiếng của phái Biểu hiện Đức.

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2018

Em biết không...

Rainer Maria Rilke (1875-1926)  

© Vincent van Gogh (1853-1890): Họa sĩ Hà Lan

Em biết không, anh kết những bông hồng
rũ mệt vào tóc em, êm ru một cơn gió buồn lay động
- Em nhìn trăng, như một đồng xu bạc ròng
và một ảnh hình in rập vào trong:
một người đàn bà ôm những bó gai tối sẫm, mỉm cười -
Là dấu hiệu của những đêm ái ân đã chết.

Em cảm nhận những bông hồng chết trên vầng trán?
Và từng bông bỏ người chị em của mình đi, bàng hoàng
và đã phải một mình rũ héo và úa tàn
và tất cả rơi vào lòng em, tím tái
Ở đó hoa chết. Nỗi thương đau êm ru và vĩ đại.
Hãy đi vào màn đêm. Và chúng ta người thừa kế hoa hồng.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Weißt du …

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Weißt du, dass ich dir müde Rosen flechte
ins Haar, das leis ein weher Wind bewegt –
Siehst du den Mond, wie eine silberechte
Merkmünze, und ein Bild ist eingeprägt:
ein Weib, das lächelnd dunkle Dornen trägt –
Das ist das Zeichen toter Liebesnächte.

Fühlst du die Rosen auf der Stirne sterben?
Und jede läßt die Schwester schauernd los
und muß allein verdarben und verderben,
und alle fallen fahl in deinen Schoß.
Dort sind sie tot. Ihr Leid war leis und groß.
Komm in die Nacht. Und wir sind Rosenerben.

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke
(1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ. Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Vincent Willem van Gogh (1853-1890): Họa sĩ Hà Lan, tác phẩm đặt nền móng cho Hội họa hiện đại.

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2018

Những con mắt xuân xanh biếc

Heinrich Heine (1797-1856)
 
Tranh © Emil Nolde (1867 – 1956): Họa sĩ Đức

Những con mắt xuân xanh biếc
Từ đồng cỏ ngước mắt trông
Đáng yêu ấy loài hoa tím
Lựa tìm tôi kết chùm bông.

Tôi hái hoa và nghĩ ngợi
Và bao ý nghĩ dâng trào
Trong tim tôi đang thầm thào,
Chim dạ oanh ca vang tiếng.

Vâng chim hát điều tôi nghĩ
Om lên, dội lại khắp nơi;
Bí mật dịu dàng của tôi
Khắp cả khu rừng đã biết.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Die blauen Frühlingsaugen

Heinrich Heine (1797-1856)


Die blauen Frühlingsaugen
schaun aus dem Gras hervor;
das sind die lieben Veilchen,
die ich zum Strauß erkor.

Ich pflücke sie und denke,
und die Gedanken all,
die mir im Herzen seufzen,
singt laut die Nachtigall.

Ja, was ich denke, singt sie
lautschmetternd, daß es schallt;
mein zärtliches Geheimnis
weiß schon der ganze Wald.

(1844)

Chú thích của người dịch:


Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

Tranh của Emil Nolde (7. 8. 1867 – 13. 4. 1956): Một trong những đại diện phái Biểu hiện Đức, và được coi là một trong những họa sĩ sơn dầu và màu nước xuất sắc của thế kỷ 20.

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2018

Trong mùa xuân

Georg Trakl (1887 - 1914)   

Tranh của © Emil Nolde (1867– 1956): Họa sĩ Đức

Tuyết lún xuống khẽ khàng bởi những bước chân tăm tối
trong bóng cây
những cặp ái ân ngước lên mí mắt hồng.

Sao và đêm
luôn luôn gối theo tiếng gọi mơ hồ của thủy thủ
và mái chèo khua theo nhịp nhẹ nhàng.


Chẳng bao lâu nữa nơi tường đổ hoang tàn
nở những bông hoa tím,
lặng lẽ như thế xanh lên thái dương của người cô quạnh.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Im Frühling

Georg Trakl (1887 - 1914)

Leise sank von dunklen Schritten der Schnee,
Im Schatten des Baums
Heben die rosigen Lider Liebende.

Immer folgt den dunklen Rufen der Schiffer
Stern und Nacht;
Und die Ruder schlagen leise im Takt.

Balde an verfallener Mauer blühen
Die Veilchen,
Ergrünt so stille die Schläfe des Einsamen. 



Bản tiếng Anh:

In the Spring

Georg Trakl (1887 - 1914)

Your black footsteps whisper into the snow.
In the shadows of trees
your rosy eyelids flutter out of love.

Forever follow the dark calls of the mariner,
the night and the stars.
And the oars pulse faintly.

Before long the violets bloom
by the crumbling wall.
The temple of the deserted corrodes in their silence.

Translated by Eric Plattner

Chú thích của người dịch:

Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Tượng trưng, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Tòan bộ thi phẩm của ông mang dấu ấn của hòai cảm, u sầu và hướng tìm Thiên Chúa. Có thể kể Cái chết, Suy đồi và sự Suy tàn của Tây Phương như những hàm ý chính ở thơ trữ tình sâu xa của Georg Trakl đầy những biểu tượng và ẩn dụ.
„ Hồ như không thể định vị tác phẩm thơ của ông một cách rõ rệt theo lịch sử văn học nội trong văn chương của thế kỷ 20“ (Wikipedia)

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905 Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng Latinh, Hy Lạp và Tóan), không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocain quá liều.

Tranh của Emil Nolde (7. 8. 1867 – 13. 4. 1956): Một trong những đại diện phái Biểu hiện Đức, và được coi là một trong những họa sĩ sơn dầu và màu nước xuất sắc của thế kỷ 20.

Thứ Năm, 15 tháng 3, 2018

Như sinh ra từ con sóng bạc đầu

Heinrich Heine (1797-1856)   

© Édouard Manet (1832-1883): Họa sĩ Pháp

Người tôi yêu rạng ngời nhan sắc
Như sinh ra từ con sóng bạc đầu
Bởi nàng được tuyển làm cô dâu
Của một gã đàn ông xa lạ.

Tim ơi, tim tôi ơi nhẫn nại
Chớ sôi lên bởi sự bội tình
Hãy rán chịu, chịu và tha thứ
Việc làm người rồ dại đẹp xinh.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Wie die Wellenschaumgeborene

Heinrich Heine (1797-1856)

Wie die Wellenschaumgeborene
Strahlt mein Lieb im Schönheitsglanz,
Denn sie ist das auserkorene
Bräutchen eines fremden Manns.

Herz, mein Herz, du vielgeduldiges,
Grolle nicht ob dem Verrat;
Trag es, trag es, und entschuldig es,
Was die holde Törin tat.

Chú thích của người dịch:

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

Tranh Édouard Manet (1832-1883): Họa sĩ Pháp, một trong những người mở đường cho Hội họa hiện đại nói chung.

Thứ Tư, 7 tháng 3, 2018

Anh từng phải nghĩ

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Tranh ©Sinaida Jewgenjewna (1884-1967)

Anh từng phải lan man nghĩ, như có lần
anh đã thấy mùa xuân sâu mơ tưởng
giữa những hàng thông đen,
khi anh đứng trước nhan sắc em
và qua những hàng kẻ sẫm của làn ngôi
gương mặt em mơ như một đất nước.

Từ viền môi em lan ra
rất êm ái một nụ cười trên con đường mất hút.
Những người khác hồ như không hay biết,
Thế đấy một chiếc lá cây phấn hoa lay:
Chỉ một người nhìn ơn phước xuân nay,
người nhìn ngắm như ở trong giấc mộng.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Ich mußte denken

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Ich mußte denken unverwandt,
wie ich einst zwischen schwarzen Pinien
den tiefen Frühling sinnen fand,
als ich vor deiner Schönheit stand
und durch der Scheitel dunkle Linien
dein Antlitz träumte wie ein Land.

Es schlich von deiner Lippen Saum
ein Lächeln auf verlornem Pfade –
ganz leis. Die andern merktens kaum.
So weht ein Blatt vom Blütenbaum:
Nur einer schaut die Frühlingsgnade,
und der sie schaut, ist wie im Traum.

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Sinaida Jewgenjewna Serebrjakowa (Зинаи́да Евге́ньевна Серебряко́ва (1884-1967): Nữ họa sĩ Nga, đại diện của phái Ấn tượng, từ 1924 sống lưu vong tại Pháp. Sau khi bà mất, một phần tác phẩm được đưa trở về Liên Xô.

Chủ Nhật, 4 tháng 3, 2018

Những đám mây trắng

Hermann Hesse (1877-1962

Tranh © Alfred Sisley (1839-1899): Họa sĩ Pháp

Ô nhìn kia mây lờ lững
Lại bay như điệu nhạc êm
Những bài ca đẹp lãng quên
Trên trời xanh về xa tắp!

Không con tim nào hiểu chúng
Nếu không trên chuyến dãi dầu
Biết về mọi nỗi khổ đau
Thành niềm vui nơi cuộc lữ.

Tôi yêu những mảnh rời mây trắng
Như mặt trời, gió và đại dương
Bởi chúng là thiên thần, em chị
Của những người không có quê hương.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Weiße Wolken

Hermann Hesse (1877-1962)

O Schau, sie schweben wieder
Wie leise Melodien
Vergessener schöner Lieder
Am blauen Himmel hin!

Kein Herz kann sie verstehen,
Dem nicht auf langer Fahrt
Ein Wissen von allem Wehen
Und Freuden des Wanderns ward.

Ich liebe die Weissen Losen
Wie Sonne, Meer und Wind,
Weil sie der Heimatlosen
Schwestern und Engel sind.

Chú thích của người dịch:

Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói đồng hoang) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.

Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.

Tác phẩm:
Thơ:
– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ

Văn xuôi:
- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết
- Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch.
- Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông.
- Sói đồng hoang (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết.
- Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.


Tranh của Alfred Sisley (1839-1899): Họa sĩ phái Ấn tượng Pháp.

Thứ Năm, 1 tháng 3, 2018

Như loan tin

Phạm Kỳ Đăng  

© Léon-Francois Comerre (1850 – 1916)

Bay như loan tin. Chấp chới

Én nhô ngực nắng đào phai
Như có trái tim đập với
Lòng tin có một không hai.

Trong bao cơ man huyền nhiệm
Có nghe. Hối hả bước chân
Vì em nhắn riêng lời hẹn
Đào rơi cánh rắc lại gần.

Rắc như san ra hồi hộp

Từ lâu, hẳn có gì thêm 
Sẽ chứng mùa xuân kỳ diệu
Xin người hãy nán chờ xem.

©® PKĐ 2018

Tranh của Léon-François Comerre (1850 – 1916) Họa sĩ hàn lâm Pháp của phái Tượng trưng.

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...