Thứ Năm, 25 tháng 9, 2014

Heine và chủ nghĩa cộng sản

Wolf Biermann

Chưa bao giờ Heine là đồng chí của một đảng, nhưng còn lại ông một người đương thời đã đứng về một phía: ông vẫn luôn được yêu mến và căm ghét – và thường trong cả hai xúc cảm bởi những người ra hồn. Luôn luôn đọc ông với nhãn quan mới đã và đang thú vị hơn so với sự tranh cãi về ông. Ở đây có thần dược thi ca dành cho những người Đức mắc chứng ca cẩm kinh niên:

Rên rỉ

Hạnh phúc là em điếm lẳng lơ

Tranh của © Lyonel Feininger (1872-1956) họa sĩ Đức-Mỹ
Không thích dừng chân luôn một chỗ
Nàng vuốt ve tóc anh xòa trên trán 
Thoắt hôn anh và rồi lại nhởn nhơ đi             

Bà Bất hạnh thì ngược đời thật
Yêu dấu ôm anh ghì vào ngực nồng nàn
Bà nói, bà không có gì phải vội
Ghé sát giường anh, bà ngồi đan.


Lamentationen

Das Glück ist eine leichte Dirne
Und weilt nicht gern am selben Ort;
Sie streicht das Haar dir von der Stirne
Und küsst dich rasch und flattert fort.


Frau Unglück hat im Gegenteile 
Dich liebefest ans Herz gedrückt;
Sie sagt, sie habe keine Eile,
Setzt sich zu dir ans Bett und strickt.

Vâng cuộc đời khô khan thường mai phục tấn công chúng ta bằng những xung đột cá nhân và chính trị: hòa bình mất đi ở Irak, cuộc chiến huynh đệ vĩnh hằng ở Palestine, chủ nghĩa tư bản kiểu trại tập trung của Trung quốc, cuộc diệt chủng được dung thứ của nước Nga tiến hành tại Tschechien, sự lây lan nhanh như phi ngựa của việc mở rộng biên giới EU, cuộc hôn nhân nguy khốn giữa Merkel(1) và Münterfering(2), sự quay trở lại hỗn hào của cán bộ CHDCĐ từng bị lật đổ, giá dầu tăng một cách cuồng nộ, những cuộc truy hoan đêm hành quyết Do thái của những ngụy tín đồ Hồi giáo trong cơn cuồng nộ dân tộc được tổ chức một cách toàn thống phản đối những bức đúng là hí họa thánh Muhammad. Nếu như những trận võ mồm tới lui đôi phen làm tôi rối trí, thì sau đó tôi thích thú giở tập“ Giai điệu Hebrew“ (3) của Heinrich Heine đọc bản tường thuật viết bằng thơ về cuộc tranh luận tôn giáo thời trung cổ. Ở đó, trong dạng thức một bản tình ca, nhà thơ tường thuật về cuộc cãi vã ói ra mật về đức tin của một nhà giáo sĩ Rabbi (4) Tây Ban Nha với một Tu sĩ đạo Thiên Chúa. Và thi sĩ cung cấp cho chúng ta như một điểm nhấn nhá cái khoảng cách chua chát song song đối những đảng này và đảng nọ đang cãi nhau. Có nghĩa là Heine kết cục để cho hoàng hậu xinh đẹp ở trên lô khán giả nói với vị hôn phu buồn tẻ của mình rằng:

Kẻ nào có lý, tôi không biết
Tôi lờ mờ thế đó ngộ ra
ông Rabbi hay nhà Tu sĩ
Rằng cả hai ông đó thối tha.


Welcher recht hat, weiß ich nicht -
Doch es will mich schier bedünken,
Dass der Rabbi und der Mönch,
Dass sie alle beide stinken.

Tôi bị choáng bởi một cái điều mới mẻ đình đám vốn bản thân tôi không hề tính tới. Năm 2005, tạp chí SPIEGEL đã công bố kết quả thăm dò ý kiến công luận Đức. Mười lăm năm sau khi thống nhất, người ta đưa ra thử một cái câu hàm ý được diễn đạt một cách tinh vi:“ Chủ nghĩa xã hội là một ý tưởng tốt, cho đến hôm nay chỉ được thực hiện tồi.“

Điều đó có nghĩa, hỏi một cách ít khéo léo hơn: người ta liệu có nên lặp lại thí nghiệm súc vật ở phạm vi toàn trị, thất bại toàn diện, đem đưa sang người thử nữa không và, nếu cần thiết làm đi làm lại nhiều lần, cho tới lúc nó hoạt động được. Kết quả của cuộc trưng cầu ý kiến: 56% người Đức ở phía Tây và 66% người dân vùng CHDC Đức dạo xưa đã đồng tình với câu nói búa liềm này. Có thể những nhà nghiên cứu ý kiến công luận, đáng lý ra chuẩn xác hơn, thay vào khái niệm „Chủ nghĩa xã hội“ há chẳng nên dùng khái niệm „Chủ nghĩa cộng sản“ cho bài thử ý kiến của mình. Nhưng mà thôi, căn cứ vào nghiệm trải lịch sử và từ nhãn quan mác-xít thì điều đó không mấy làm ra khác biệt.

Thế thì điều này dính dáng gì đến Heine? Tôi nghĩ: tất cả đấy. Heine đứng ở cái nôi thế giới của chủ nghĩa cộng sản, chúng ta đứng bên nấm mồ.


Vâng Heine đã biểu đạt cho chúng ta tố chất của những hy vọng vào chủ nghĩa cộng sản. Vào năm 1844, chỉ 4 năm sau „Tuyên ngôn“, thi phẩm Nước Đức, một truyện cổ tích mùa Đông đã được ấn hành bởi nhà xuất bản Campe vùng Hamburg. Trong bản du ký chính trị- thơ thiên tài này, ngay chương đầu tiên có khổ thơ bốn dòng:

Một khúc mới đẹp hơn thế nữa
Các bạn ơi tôi muốn viết nên
Trên trần thế ta đây đã muốn
Dựng xây vương quốc của triều thiên.


Ein neues Lied, ein besseres Lied,
O Freunde, will ich euch dichten!
Wir wollen hier auf Erden schon
Das Himmelreich errichten.

Hai dòng cuối biểu đạt tố chất của toàn bộ bản Tuyên ngôn của đảng cộng sản ở dạng tóm tắt ngang mức chiết ngôn: Vương quốc triều thiên trên trần thế. Chính là sự hy vọng sai lầm cách đây 150 năm đã chắp cánh cho những cái đầu khá nhất. Heinrich Heine trình bày câu châm ngôn hành động của những trái tim khai sáng trong thời đại khổng lồ hung bạo của chủ nghĩa tư bản non trẻ. Sự khốn cùng của quần chúng quần quật trong lao động trả lương tự do dạo đó tai tiếng đến nỗi khiến những người trí thức đại tư sản thí dụ như Friedrich Engels hay tiểu tư sản như Karl Marx đã không có thể hình dung ra cái gì khác hơn là đối thể máy móc như một lựa chọn chống lại địa ngục hiện đại của thời đại công nghiệp: một thiên đường xã hội trên trái đất.

Chấm dứt sở hữu tư nhân phương tiện sản xuất, từ chuồng lợn cho tới nhà máy. Cần đấu tranh lấy một triều thiên tồn tại trong thực tế, nơi tất cả mọi người kết cục có thể là anh chị em với nhau, nơi tình yêu và lý trí toàn thắng, nơi niềm hân hoan, ánh thiên thần đẹp đẽ! - tất cả chúng ta say sưa niềm hân hoan theo tinh thần Schiller (5) sẽ hát cùng nhau trong dàn đồng ca, trong khi „mặt trời không nghỉ“ sẽ soi vào sọ ta gần như nắng thiêu – tai họa ập xuống.

Khái niệm chủ nghĩa cộng sản ngay từ đầu là một từ mốt hấp dẫn ở Pháp, sau đó nhanh chóng đi vào ngữ vựng của người châu Âu: một từ khóa có sức ma thuật dành cho tất cả mọi người hướng tới một xã hội không có thống trị thông qua sự ngự trị của sở hữu toàn thể. Vế vấn đề này, dạo tháng Chạp năm 1841, với tư cách là thông tấn viên của tờ báo Allgemeine Zeitung vùng Augsburg, Heinrich Heine đã viết: „ Sự tuyên truyền về chủ nghĩa cộng sản hàm chứa một ngôn ngữ bất cứ dân tộc nào cũng hiểu: Những nguyên tố của ngôn ngữ hoàn vũ này giản phác như cái đói, như tị hiềm, như cái chết“ – ấy một lời phán truyền nhiều nghĩa.

Marx và Engels – về cơ bản cả họ nữa cũng chỉ cấp cho một không tưởng tô vẽ bằng triết học lịch sử của Hegel (6) về một thiên đường người điên của một cảnh thơ mộng về xã hội: chính là một ảo tưởng phản cách mạng về kết cục của lịch sử.

Heine khác, thi sĩ ngờ vực - chưa bao giờ ông bốc đồng một cách mù quáng, kể cả khi với chút gượng gạo ông hy vọng vào thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Một cách thông thái ông dự cảm, sự bình quân xã hội cho mọi người hồ như sẽ chỉ đẻ ra một dạng thức mới của bất bình đẳng tinh vi. Ông đã tiên cảm thấy, vương quốc triều thiên cộng sản đâu đó có thể lộ nguyên hình là một vòng xoáy còn tồi tệ hơn của địa ngục trần gian.

1855, một năm trước khi chết, trong hố chăn mền ở Paris (7), Heine đã viết một lời nói đầu cho cuốn sách „Lutetia“ - ấn bản tiếng Pháp gồm những bài báo sưu tập lại của ông trên tờ Augsburger Allgemeiner Zeitung (Báo Phổ Thông vùng Augsburg). Ông than phiền về những người xông lên phá tượng đập chuông của chủ nghĩa cộng sản đắc thắng đang tràn tới. „Chỉ với sự kinh hoàng và hoảng hốt tôi nghĩ về thời đại những người đập phá đền chùa miếu mạo sẽ đi đến thống trị - Ôi chao! Tôi nhìn thấy trước những thứ đó, và một nỗi u buồn không sao nói lên được xâm chiếm lấy tôi, nếu như tôi nghĩ đến sự suy tàn, với đó những bài thơ của tôi và cả trật tự của thế giới cũ bị đe dọa bởi chủ nghĩa cộng sản.“

Nhưng đến sau đó màn ngựa chạy vòng của nhục hình roi vọt làm các vị tai to mặt lớn stalinit của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và CHDC Đức đã yêu nó với lòng ngờ vực.

„Và tuy nhiên, tôi phải khảng khái thú nhận, mặc cho nó thù nghịch đối với sở thích và chí hướng của tôi, chính cái chủ nghĩa cộng sản này đã gây ra một niềm hứng thú tâm hồn tôi không sao dứt ra khỏi... Được ban phước lành hỡi người buôn hàng đồng nát, xưa đã từng ghém những bài thơ vào gói nhỏ, đổ cà phê và sợi thuốc lá đổ vung ban cho những bà mẹ già nghèo khó, trong thế giới của chúng ta bất công có thể phải chịu thiếu thốn một món quà mát lòng như vậy, fiat justitia, pereat mundus!" (Hãy để cho công lý thực thi!).

Vậy đó lời nói cuối cùng của nhà thơ trong âm hưởng của một lời ủy thác đen. Trong 150 năm từ đó trôi qua, trên thế giới không chỉ Pháp lý mà con cả Công lý chưa bao giờ thực thi dưới nhãn hiệu của hãng „Chủ nghĩa cộng sản“ cả. Tuy nhiên điều đó những chẳng ngăn được tôi đứa con sinh ra của người cộng sản, trung thành với đức tín, bất chấp tất cả ở lại trong nhà thờ cộng sản. Vâng những tín đồ Thiên Chúa cũng đâu có chối bỏ bất chấp tòa án dị giáo thời trung cổ và các nhà đạo đức giả trong đám nhân sự thay mặt Chúa ở trên mặt đất này. Mondieu! (Lạy Chúa tôi) Rằng chúng ta những người cộng sản không thể nào cưỡng bức vương quốc triều thiên xuống trái đất được, thì còn lâu tôi mới để cho bản thân mình trở thành kẻ phản đạo.

 

Nhưng mà tất cả đã đến một cách tồi tệ hơn nhiều, và nó tất phải đến như vậy. Sự nghiệm trải lay động tôi đến xương tủy, rõ ràng mỗi thử nghiệm hòng kiến tạo bất cứ một vương quốc triều thiên nào, thiên chúa giáo hay đấng cứu thế hay cộng sản đều cưỡng bức chúng ta vào những vòng xoáy chỉ có hiện đại hơn của địa ngục. Chúng ta - những đứa con quả cảm của con người - phải cải thiện thế giới của chúng ta không kèm theo một đức tin con trẻ kiểu này hay kiểu nọ.

Heinrich Heine đã ngửi ra mùi xác chết toàn trị, trước khi nó bốc mùi. Về chiến thắng tương lai của chủ nghĩa cộng sản, ông ấy đã viết: „ Có lẽ kết cục sẽ chỉ có một con chiên và một bầy đàn, một con chiên tự do với một cây gậy chăn bằng sắt và một bầy người xén trụi lủi như nhau đồng thanh kêu be be!...Tương lai ngửi thấy vị da ngâm, mùi máu, mùi vô đạo và rất nhiều vị đòn roi. Tôi khuyên các cháu của chúng ta hãy ra đời với tấm da lưng thật dầy“.

Lời phỏng đoán tăm tối của Heine, từ mặt giấy của „Tập Tình Ca“ kế đó trong chủ nghĩa cộng sản được cuốn thành những gói giấy, để kết cục gói ghém vào đó gia vị hoặc dăm lạng cà phê cho một bà cụ nghèo. Sự e sợ này đã được xác chứng là một lời mỹ miều. Bà cụ già nghèo và các con của bà đơn giản bị đập chết. Trong chế độ cộng sản tồn tại thực tế không kẻ nô tỳ nào còn cần gia vị, bởi vì đằng sau hàng rào dây thép gai dành cho hàng triệu người không có cả đến gà trong nồi cần nêm gia vị. Những tù nhân trong những trại cải tạo không uống cà phê, mà uống băng tan chảy, họ mua vỏ cây, và một số người trong cơn điên vì đói đã kín đáo giết người cùng khổ như mình đang giãy giụa để ăn thịt họ.

Trí phóng tưởng của người chế nhạo thiên tài đã không đủ mức. Người mang tầm nhìn xa Heinrich Heine nào có thể hình dung ra một thứ quần đảo ngục tù (8) dù chỉ một lần thôi: một đất nước 200 triệu người đứng dưới lá cờ đỏ và những lời khoa trương xã hội chủ nghĩa đã ngốn tuyên truyền lừa bịp như một thứ bánh trời ban và đã trí trá vì sợ chết.

Thậm chí những người đương thời nổi tiếng của chủ nghĩa cộng sản thực tế tồn tại ở triều đại Stalin đã bị quáng mắt về ý hệ và nghèo trí tưởng tượng đến mức thảm hại: Brecht (9), Bloch (10), Gerhart (11) và Hanns Eisler (12), Feuchtwanger(13), Heinrich Mann (14) – tất thảy đều những trí tuệ thiên tài và kinh lịch thế giới, mà thật cũng may mắn sao cho chúng ta, đã thành công trong việc chạy sang Mỹ - vốn kẻ thù giai cấp bị họ cao ngạo khinh bỉ nhìn xuống - , tốt nhất là vùng California xinh đẹp, để tránh nanh vuốt của hai đồng chí Hitler và Stalin.

Đêm hôm nay tôi đã có một giấc mơ hoảng loạn về Heinrich Heine. Từ khi tôi viết tiểu luận này, tất cả những gì vây thúc tôi như điên dại xô trong đầu lộn xộn. Tôi mơ thấy Heine là một tù nhân trên hòn đảo Cuba. Nhưng mà tôi gặp nhà thơ không trong một nơi sạch sẽ đến mức dã man kiểu như trại tù Mỹ đặc quản ở Guantanamo. Là người đi thăm, tôi lọt vào trong một nhà giam bẩn thỉu của chế độ Castro, ban tù „Các nhà thơ thù địch nhà nước“. Tù nhân Heine được dẫn vào buồng gặp thân thăm. Người tù giới thiệu danh tính với tôi, tuy nhiên với cái tên lừng danh của người nô lệ da đen vượt ngục Esteban Montejo(15), còn gọi là „El Cimarrón“, vốn xuất thân từ một đồn điền trồng mía ở Cuba. Heine nói nửa bằng tiếng Tây Ban Nha, nửa tiếng Đức và cuối câu chuyện thậm chí còn chen vào tiếng Pháp. Sau đó Heine thầm thì: „Ở đây còn Raul Rivero Castaneda(16) ngồi tù nữa. Ông này đã từng là cộng sản, là một nhà thơ, đang ngắc ngoải trong địa ngục này. Ông ta không thể xơi những con gián trong buồng giam của mình!“. Tôi nói: „Thưa ngài Heine yêu thương và kính mến. Ngài là tác giả của những câu thơ về vương quốc triều thiên trên địa đàng, tôi muốn được trình cho Ngài nghe một câu của những nhà tìm hiểu ý kiến công luận Đức về tương lai của chủ nghĩa xã hội và xin hỏi, chẳng hay Ngài còn hy vọng vào một chủ nghĩa cộng sản với những hạt đậu đường cho mỗi người?“. Nhưng rồi người tù nhân thều thào còn nhỏ hơn nữa: „El sueño de la razón produce monstruos (Giấc ngủ của lý trí đẻ ra quái vật – ND). Câu nói nhiều ngụ ý của Goya(17) dội vào tôi như tin nhắn từ mật ngục. Tôi, bây giờ cũng nhỏ nhẹ, nói lại: „Thế nào cơ, tôn ông Heine, ông ngụ ý gì với điều đó?. El sueño, tiếng Tây Ban nha trong ngôn ngữ của chúng ta gồm cả hai nghĩa: Giấc mơ, nhưng cũng là giấc ngủ. Có dễ ông ngụ ý khai minh rằng: Giấc ngủ của lý trí đẻ ra những con quái vật, hay là điều ngược lại: Giấc mơ của lý trí, vậy là sự không tưởng cuồng vọng tương lai của thiên đường cộng sản đẻ ra quái vật?“. Người đàn ông kế đó khò khè lời nói hoảng loạn - sinh tồn của Rimbaud(18):“ Je est un autre „ (Tôi là một kẻ khác). Sau đó người tù bị dẫn đi. Giấc mơ của tôi là như thế.

Trong tập thơ „Romanzero“ xuất bản 5 năm trước khi Heine chết, có một trong số ít những bài thơ tự thú đa cảm của ông. Bài thơ bắt đầu thế này:

Đứa con lầm lạc

Mất vị thế ở trong cuộc chiến vì tự do
Từ ba chục năm lòng trung trinh ráng chịu
Tôi đấu tranh không hy vọng vượt qua
Tôi biết không bao giờ khỏe mạnh trở về nhà


Enfant Perdu

Verlorner Posten in dem Freiheitskriege,
Hielt ich seit dreißig Jahren treulich aus.
Ich kämpfe ohne Hoffnung, dass ich siege,
Ich wusste, nie komm ich gesund nach Haus.

Vâng, cuộc chiến vì tự do này cũ xưa như nhân loại. Chúng ta đây sống ở Tây Âu trong tự do và phồn thịnh. Phải chăng chúng ta chẳng cần chi một bài thơ chiến đấu như thế này? Ô có đấy. Kể cả quyền tự do non trẻ xét về mặt lịch sử mà chúng ta đang hưởng, có những thủ đoạn xấu xí của nó, có những cái bẫy kinh tế và tinh thần, có những vấn đề mang tính toàn cầu và những kẻ thù toàn trị không đội trời chung. Cái mà Heine hung hăng gọi là cuộc chiến tranh vì tự do, sẽ còn trường tồn trong ẩn dụ, chừng nào chúng ta còn tồn sinh. Và nếu ai đào ngũ trong cuộc chiến tranh này, tỉ dụ như trong bộ điệu của một khẩu hiệu giữ khoảng cách đồng đều tiện dụng „ Saddam Hussein và George W.Busch, ấy cả hai ông đều thối tha“- thì người đó, nói một cách ẩn dụ, không thuộc về đảng của Heinrich Heine.

Vâng tôi yêu thái độ của Heine: sự sùng tín tà nghịch của ông. Chúng ta những người Đức có tâm hồn than vãn, chừng nào còn được, cần phải học lấy sự ngờ vực vâng thuận cuộc đời ở nhà thơ - có thể mang tính cách Đức nhất - của ông, sự trầm tư diễu cợt can trường của ông.

©Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức, HEINE UND LE COMMUNISME 

Nguồn: Der Spiegel 
 
Chú thích của người dịch:


Wolf Biermann: Ca sĩ, sáng tác bài hát, nhà thơ, sinh năm 1936 tại Hamburg, con trai một người cộng sản Do thái chết trong trại tập trung Auschwitz *1950 đại diện CHLB Đức ông tham gia Liên hoan thanh thiếu niên thế giới lần đầu tiên tại CHDC Đức *1953 di cư sang Cộng hòa dân chủ Đức (CHDCĐ), học Triết học, Kinh tế-Chính trị học và Toán tại trường Tổng hợp Humboldt (1955-1963) *1957-1959 Trợ lý đạo diễn ở đoàn kịch Berliner Ensemble *1960 Bắt đầu viết thơ và sáng tác bài hát* Xây dựng nhà hát kịch Công nhân và Sinh viên *1962 In tập thơ „Những bài thơ tình“ *1963 Bắt đầu tình bạn với nhà khoa học bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất của CHDC Đức Robert Havermann. *1965 bị chính quyền CHDCĐ cấm biểu diễn và cấm xuất bản với tội danh „Phản bội giai cấp“ và „Tục tĩu“, sau những buổi trình diễn và chuyến du ca dọc CHLB Đức, và đặc biệt sau khi ông in tập thơ Drahtharfe (Thụ cầm dây thép) và ra đĩa hát *Tháng 12 năm 1965 Trung ương Đảng SED (Công nhân Xã hội thống nhất Đức) ra nghị quyết cấm ông biểu diễn và xuất bản. *Những tập thơ ông xuất bản thuộc về những tác phẩm của văn học hậu chiến được độc giả mua nhiều nhất *Sự tước đoạt quốc tịch Wolf Biermann đẩy ông sang Tây Đức vào năm 1976 gây ra sự phản kháng rộng lớn trong giới trí thức và sinh viên hai miền nước Đức, và từ đó ông như biểu tượng cho giới trí thức đối lập, phê phán chế độ chống lại chủ nghĩa toàn trị của CHDCĐ. *1984 Giảng viên thỉnh giảng tại Ohio State University/USA. 1993-1995 Giáo sư thỉnh giảng tại trường Tổng hợp Heinrich-Heine-Universität *Nhận nhiều giải thưởng Văn chương *2006 Nhận Huân chương chữ thập Liên bang – Bundesverdienstkreuz và 1907 được bầu làm công dân danh dự của Berlin.

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vượt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm các bản dịch của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

(1) Angela Merkel: sinh năm 1954, Chủ tịch đảng CDU - Liên minh dân chủ Thiên chúa giáo từ năm 2000, và từ năm 2005 thủ tướng Đức ở nhiệm kỳ thứ 3.
(2) Franz Müntefering: sinh năm 1940, Phó thủ tướng Đức (2005-2007), Bộ trưởng bộ Lao động và Xã hội, Chủ tịch khối nghị sĩ Dân chủ Xã hội (2004-2005 và 2008-2009).
(3) Chỉ tiếng Hebrew hay người Hebrew, đặc biệt đề cập đến người Do Thái, sử dụng tiếng Hebrew làm ngôn ngữ nói ở Israel, hoặc làm ngôn ngữ cầu nguyện và học thuật trong cộng đồng dân tộc hay cả hai.
(4) Giáo sĩ Do Thái Giáo.
(5) Johann Christoph Friedrich von Schiller (1759-1802): Thi hào Đức trong tầm vóc nhà thơ, kịch tác gia, nhà triết học và sử học. Cùng với Goethe, Herder và Wieland ông thuộc về bộ tứ trụ của trào Cổ điển Weimar.
(6) Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831): Triết gia, đại diện quan trọng nhất của chủ nghĩa duy tâm Đức.
(7) Sau cuộc cách mạng 1848, Heine bị suy sụp, 8 năm cuối đời ông nằm giường trong tình trạng liệt toàn thân, như ông nói, trong hố chăn mền của mình.
(8) Tên tác phẩm The GULAG Archipelago viết về chế độ nhà tù - lao cải của Liên Xô dưới thời Stalin của nhà văn Nga Alexander Issajewitsch Solschenizyn.
(9) Bertolt Brecht (1898-1956) quen thuộc với độc giả Việt Nam. Ông là kịch tác gia và nhà thơ, cùng với Franz Kafka và Thomas Mann, có ảnh hưởng rất lớn trong văn chương Đức thế kỷ 20.
(10) Ernst Bloch (Ernst Simon Bloch, 1885-1977): Triết gia Đức thuộc trường phái Tân mác-xít, trong những năm 30 từng bao biện các cuộc Thanh trừng của Stalin, sau nhận ra lầm lỗi của mình. Sau khi Hitler lên cầm quyền chạy sang Thụy Sĩ và sống lưu vong ở Mỹ. Về CHDCD, được sủng ái như nhà triết gia của thể chế, ông đã phản đối chính sách của Đảng CNXHTN Đức sau cuộc khởi nghĩa 1953, trốn ở lại Tây Đức sau khi bức tường được dựng nên năm 1963.

(11) Gerhart Eisler (1897-1968): Nhà báo, chính khách của CHDCD, lưu vong tại Mỹ, bị phế truất trước và sau cuộc khởi nghĩa 1953 vì thiện cảm với những người phê phán Tổng bí thư Walter Ulbricht, được phục hồi năm 1955.
(12) Hans Eisler (1898-1962): Nhà soạn nhạc người Áo (em trai của Gerhart Eisler), cộng tác nghệ thuật với Bertolt Brecht, sống lưu vong tại Mỹ giảng dạy tại các trường tổng hợp New York và Los Angeles trong những năm 30 và 40. Từ 1949 ông sống và làm việc tại Đông Berlin.
(13) Lion Feuchtwanger (1884-1958): Nhà văn Đức, một trong những tác giả viết tiếng Đức được đọc nhiều nhất trong thế kỷ 20. Là người trí thức cánh tả, trong cuộc đời lưu vong, ông bị các cơ quan an ninh thời McCathy theo dõi chặt chẽ. CHDC Đức tôn vinh ông là chiến sĩ chống phát xít, cảm tình với Chủ nghĩa cộng sản.
(14) Heinrich Mann (1871-1950): Nhà văn, nhà tiểu luận, anh trai của Thomas Mann. Là chủ tịch của Viện hàn lâm nghệ thuật Phổ từ năm 1930, ông bị khai trừ, đốt sách công khai vì tư tưởng đối lập với chủ nghĩa quốc xã và tinh thần cổ vũ cho dân chủ. Heinrich Mann sau đó sống lưu vong tại Pháp và Mỹ.
(15) Esteban Montejo: Tên người nô lệ gốc Cu ba bỏ trốn trong cuốn trong tự truyện El Cimarrón của nhà văn Miguel Barnet.
(16) Raul Rivero Castaneda, sinh năm 1945: Nhà văn, nhà báo, nhà bất đồng chính kiến Cu ba, sau khi ra khỏi nhà giam tù chính trị sống lưu vong tại Tây Ban Nha.
(17) Francisco José de Goya y Lucientes (1746-1828): Họa sĩ, nhà đồ họa người Tây Ban Nha.
(18) Jean Nicolas Arthur Rimbaud (1854-1891): Nhà thơ lớn người Pháp, một trong những người sáng lập trường phái Tượng trưng (Symbolism).


Bài đăng Văn Việt
 

Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Một chàng trai yêu một cô gái

Marcel Reich-Ranicki 

Tranh sơn dầu của © Edvard Munch (1863-1944), họa sĩ Na Uy

Một tin điện tín của Heinrich Heine? Marcel Reich-Ranicki đọc bài thơ „ Một chàng trai yêu một cô gái“ như vậy và ngoài ra còn tìm thấy „ sự chiết giảm“. Trong những tuần tới, ở mục này chúng tôi sẽ phổ biến những bài viết chọn lựa từ ngòi bút của Marcel Reich-Ranicki (Báo Frankfurter Allgemeine Zeitung).

Heine, kẻ cuồng dâm mục tử được người đời sau ưa tương truyền rằng, ông là nhà thơ cuồng loạn nhất, trong thực tế lại là nhà thơ dút dát nhất. Như thế, chúng ta biết dẫu nhiều lắm cũng coi như không biết gì về những nghiệm trải tình ái làm nền tảng cho những câu thơ của ông. Bài thơ „Một chàng trai yêu một cô gái“ trích từ tập „Khúc tình ca“ (1) thuộc về những ngoại lệ ít ỏi ấy.

Sự việc đã từ lâu được làm sáng tỏ: Chàng Heine trẻ tuổi yêu cô em họ tên là Amalie sống ở Hamburg, cô gái chẳng muốn biết một tí gì về chàng, bởi cô đã phải lòng một cậu trai khác, mà gã trai đó lại ưu ái tình cảm cho cô ả khác nữa, khiến cho nàng Amalie bực dọc vội vã cưới ngay một tay tên là John Friedländer người vùng Đông Phổ. Heine tan cuộc thế là tay trắng thất vọng và cay cú, như thế nào thì người ta có thể nghĩ ra rồi đấy. Rất nhiều lần Heine thổ lộ về chuyện này trong thư từ gửi cho bạn bè, tuy không thật cụ thể, nhưng hoàn toàn không sai lệch về sự chuyện này.

Một bài thơ phong cách điện tín

Bài thơ kể về một sự việc. Nhưng cách trình bày lại không quen thuộc. Bởi vì ở đây không có miêu tả hoặc trình bày, ở đây chỉ có những thông báo sắp đặt cạnh nhau, ở đây chỉ có tổng kết lại. Không thể ngắn gọn và sát thực tế hơn: Đối với một vụ lùm xùm tình ái dây dưa tới những năm người, Heine chỉ cần có hai khổ thơ với tổng cộng tám câu thơ ngắn. Ngữ vựng thơ, dạo đó vào năm 1822 ông từng khai thác khá đầy đủ, được tránh dùng. Chúng ta không thấy ở đây nào ánh trăng, nào trời đêm lộng lẫy, nào ánh bình minh, và không những chẳng có rừng, mà còn không có cả đồng nội, không có những đóa hoa yêu kiều và những hàng cây tỏa bóng. Chúng ta không hề biết một chút gì hết đại loại về đôi mắt, đôi má và đôi bàn tay nhỏ nhắn của cô nàng.

Chỉ có từ ngữ thông dụng nhất được đem ra sử dụng, đó là những từ của thường nhật khô khan. Một cách lạnh lùng và lãnh đạm tác giả báo cáo, nhưng sao lạnh lùng một cách nổi bật và sát thực một cách nhấn nhá tới mức người ta ngay lập tức dò đoán, tác giả muốn che giấu điều gì đó. Những xác quyết ngắn gọn cho thấy một bút pháp sau này sẽ được người đời gọi là phong cách đánh điện tín. Còn chúng đi tới kết quả gì, thì tiếng Đức không cấp từ nào cho ta cả (một tình cảnh thật thú vị). Chúng ta phải dùng một từ lạ để hỗ trợ cho mình: Understatement (sự chiết giảm). Kết quả tổng kết đó mới làm cho rõ ràng hơn: Trong hai khổ thơ truyền tin, chúng ta phải liên lụy tới một „ sự chiết giảm“ gào thét.

Câu chuyện này cũ kỹ và tầm phào, tuy nhiên đồng thời rất mới cho kẻ nào phải trải nghiệm. Bởi vì đớn đau đẩy lùi đi mọi xúc động khác. Và thực chứng hàng triệu người đã từng khổ đau và đồng thời còn chịu khổ đau bởi điều tương tự, thì cái chuyện thật đó cũng không phải là sự an ủi. Nó gieo vào ai, đúng hơn là gieo trúng vào ai, thì người đó trái tim vỡ làm đôi (tới giờ mới có một ảnh hình thi vị như một hòa âm kết thúc. Theo sát những vần cứng rất nam tính, (erwählt – vermählt, Mann – dran), như lừa bày ra một trật tự, chỉ là một cước vận nằm trong khổ thơ thứ ba. Nếu như Heine chú tâm vào điều đó, chắc hẳn ông đã tìm ra một vần thuần túy hòa hợp với „neu“ (tinh khôi). Nhưng ở đây ông đã muốn có một vần không thuần âm, ấy chính là vần nửa thuận hòa. Từ vận mà ông chọn „entzwei“ (làm đôi) – vang lên như một tiếng kêu tuyệt vọng: cái từ này như chống lại sự hài hòa.

Có điều câu thơ đầu tiên ở khổ cuối lại là một lời trích dẫn bản thân: Trong một bức thư gửi người bạn viết về Amalie, ông đã miêu tả nàng ta là một „vách đá khiến lý trí của tôi tan tành ra mây khói“. Và rồi còn bổ sung: „ Ấy là một câu chuyện cũ“. Tan tành ư? Vâng, chính bởi tình yêu „ nhìn bằng tấm lòng chứ không nhìn bằng mắt. Và tấm lòng của nó là thứ không bao giờ đáng dùng để đưa ra lời phán xét“. Điều này từ cái ông đó mà ra, người có tác phẩm Heine gọi là „Phúc Âm trên trần thế“: chính là Shakespeare (2).

Trong nhiều nhạc sĩ phổ nhạc thi ca Heine, Robert Schumann (3) là người đáng hưởng ngôi cao trọng. Tuy nhiên ông lại hiểu sai chính bài thơ „ Một chàng trai yêu một cô gái“ (khổ sao lại mỗi bài thơ duy nhất này). Ông đã không xác định được nhịp đi cho bài thơ, thế cho nên bài này luôn liền mạch được hát nhí nhảnh và rộn rã – và bài hát tất cũng không cho phép hát khác. Chúng ta ít nghe thấy cái nền âm hưởng đằng sau u ám, báo động cũng như tiếng gào thét của kẻ đang yêu. Schumann đã nhìn bỏ sót mất kịch tính ẩn giấu giữa những dòng viết. Cho nên cả cái khúc trì nhịp Ritardando (4) ở câu „Gieo phải ai người nấy chịu“ rồi cũng không cứu vãn được nào. Sau những lời hát cuối cùng, tiếng đệm ngay lập tức lại quay trở về tiết tấu ban đầu, gấp gáp và rộn rã. Schumann đã làm nhiều bài thơ của Heine trở nên đẹp và giàu hơn, tuy nhiên ông lại làm bài này nghèo đi. Nhưng bài thơ hoàn hảo, không cần nhạc.

©Phạm Kỳ Đăng dịch
Nguồn: Ein Jüngling liebt ein Mädchen, Marcel Reich-Ranicki; Insel Verlag Frankfurt am Main und Leipzig 2001, ISBN 3-458-06655-I
Có thể xem: FAZ

Một chàng trai yêu một cô gái

Heinrich Heine (1797-1856)

Một chàng yêu một cô gái
Cô này chọn một anh kia
Anh kia lại yêu nàng khác
Đính hôn với cả người ta.

Cô gái bực mình liền cưới
Cái ông khá nhất đầu tiên
Trên đường mình gặp quàng xiên,
Chàng trai đắng lòng cay cú.

Ấy là một câu chuyện cũ 

Giở ra vẫn mới tinh khôi
Gieo vào ai người nấy chịu
Trái tim y vỡ làm đôi.

© Phạm Kỳ Đăng dịch 

từ nguyên tác tiếng Đức

Ein Jüngling liebt ein Mädchen

Heinrich Heine (1797-1856)

Ein Jüngling liebt ein Mädchen,
Die hat einen andern erwählt;
Der andre liebt eine andre,
Und hat sich mit dieser vermählt.

Das Mädchen heiratet aus Ärger
Den ersten besten Mann,
Der ihr in den Weg gelaufen;
Der Jüngling ist übel dran.

Es ist eine alte Geschichte,
Doch bleibt sie immer neu;
Und wem sie just passieret,
Dem bricht das Herz entzwei.
 

Bản tiếng Anh tham khảo

A boy loves a girl


A boy loves a girl,
Who chooses another;
He in turn loves another
And marries her.

The girl, out of pique,
Takes the very first man
To come her way;
The boy is badly hurt.

It is an old story,
Yet it remains ever new;
And he to whom it happens,
It breaks his heart in two.

Chú thích của người dịch:

Marcel Reich-Ranicki (1920-2013): Nhà phê bình được vinh danh Giáo hòang văn học, nhà trước tác có ảnh hưởng lớn nhất đương đại trong khu vực nói tiếng Đức.

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm các bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Nguyễn Xuân Sanh và Đào Xuân Quý.

(1) Lyrisches Intermezzo: gồm 67 bài, hình thành trong những năm 1822-1823, chiếm vị trí quan trọng trong Tập Tình Ca (Buch der Lieder). Intermezzo trong âm nhạc là khúc đệm giữa hai đoạn.
(2) William Shakespeare (1564 – 1616): Nhà soạn kịch, nhà thơ và diễn viên người Anh, tác gia thuộc hàng đầu của văn chương thế giới.
(3) Robert Schumann (1810-1856): Nhà soạn nhạc, danh cầm piano và nhà phê bình âm nhạc Đức của trào Lãng mạn.
(4) Ritardando: Trong âm nhạc chỉ khúc trì nhịp, chậm dần lại.

Bài đăng VHNA

Thứ Hai, 22 tháng 9, 2014

Mùa thu của cảm xúc

Rainer Gruenter 

Bài thơ khai mạc chùm thơ gồm mười một bài dẫn nhập chương „ Năm của tâm hồn“. Bài thơ mang hoa tự khai chương trọn gửi gắm vào mùa thu. Sự vật và tiến trình vẽ lên năm vào kỳ muộn. Với một từ ngữ của người trồng nho, „sau kỳ lựa hái“ mô tả trạng thái tâm tư của cảm xúc bắt đầu điệu vũ vòng của bốn mùa bằng một cuộc chia ly. Chia ly một người bạn tình, một người đàn bà, người tháp tùng của một mùa hè đã sống trọn qua.



Tranh của © Emil Nolde (1867-1956) họa sĩ Biểu hiện Đức

Cuộc chia ly này là một lời mời vào trong „công viên đồn đã chết“. Nhà thơ không tìm kiếm thiên nhiên tự do, không tìm cảnh hoang sơ vắng những lối mòn thành vết và những biên giới kẻ hàng, mà là công viên. Công viên là thiên nhiên được xếp sắp và trang điểm. Những tố chất tự nhiên, cây, nước, đồi, hoa, được tin cậy gửi vào một chương trình chỉnh trang sắc đẹp nhằm biến đổi và tân tạo chúng. Chúng được sàng lọc, tinh lựa, phối trí. Công viên là paysage idéal – phong cảnh lý tưởng - của nghệ nhân trồng vườn, của người anh em sinh đôi cho người họa sĩ vẽ phong cảnh. Công viên là một tác phẩm nghệ thuật, là paradis artificiel – một thiên đường chế tác -.

Với người trần tục, „công viên đồn đã chết“ của nhà thơ nguyên còn đó giấu mình và khép kín. Công viên hàm nghĩa là nhà thơ và đồng thời là thi ca, sự khép kín nổi bật trước cái xấu, cái tàn tệ của thời đại, cái thông điệp tiền Raphael (1) của cái đẹp, cái ý hình mang chất Mallarmé (2) của sự tinh khiết. Lời mời vào công viên là một sự lựa chọn thử thách. Điều này phân biệt (sự mời) với một sự chèo kéo gợi dục đưa tình. Cậu khóa ấm của cái đẹp không là người bạn tình chóng vánh của đam mê.

Khổ thơ đầu được tính về những chứng chỉ đẹp nhất của lễ hội phong cảnh trong thơ trữ tình. Hoffmannsthal (3) đã hiến dâng cho nó một cuộc chuyện trò giả tưởng. Người ta luôn hỏi chất cổ điển đọng lại trong thơ Đức nơi đâu. Không chần chừ, tôi chỉ ngay vào khổ thơ này. Cái thể chất ngôn từ được gột rửa khỏi mọi hoa mĩ và tếu táo. Không có sự giải tỏa ngôn từ và khát thèm cái mới, không có màn ảo thuật mù mờ về ngôn ngữ, không có trấu cám màu mè của sự nhạy cảm đến tuyệt kỹ.

Những từ như triền nước, ao, lối mòn là những chuẩn mực - ngôn từ, chuẩn mực của cổ điển đối lại cái lệch chuẩn gây ngỡ ngàng của ngôn từ và đối lại sự mê cuồng ngôn ngữ của cái tôi trữ tình hiện đại. Những chuẩn mực đó cho phép thi sĩ làm hiện ra phong cảnh của mình trong những khuôn mẫu lớn của phong cảnh lý tưởng cổ điển, là vùng quê sông Ranh (Rhine), trải dài với những hòn đảo, thung lũng và bờ sông ở miền nam thị trấn Bingen.

Những triền nước xa le lói ánh cười / Màu lam không chờ của nguyên chất mây trời“. Đây là phong cảnh của Poussin (4) mà biểu tượng mây trời, không gì sánh được, tương hợp với câu thơ về mây của thi sĩ. Công viên của thi sĩ tỏa soi trong ánh sáng của phong cảnh này. Nó chiếu sáng ao hồ và những lối mòn. „Công viên đồn đã chết“ đan luống vào chất cổ điển được lưu truyền lại.

Màu của phôi pha là màu của lịch lãm. Màu vàng sâu vợi, màu xám mềm là những tương phản màu sắc tinh tế của chừng mực. Của một sự chừng mực, thuộc tính nó là chia ly, của nỗi buồn khách quan nội sinh trong đó, của sự bất biến không những của nhãn quan, mà còn là của tình thế. Những bông hồng muộn màng, hình thể của sự nhợt nhạt cao quý, vẫn „còn chưa úa hết“. Người ta biết, cái „còn“ này mang những giờ sẽ điểm, và sau đó sẽ không còn ai sống vào giấc mơ của người khác. Nhưng xúc động thống thiết của ly biệt không cam chịu một sự phân tán. Ngay cả trong đau đớn nó cũng đòi tư thế chỉn chu, sự giữ mình và diễm lệ. Trong một vẻ trang trọng êm ru, vòng hoa đan của những hồi tưởng kết nối những ảo ảnh lừa mị đẹp đẽ với những lời hứa, có hương vị héo úa của những bông đồng tiền cuối, với tán lá tím hồng của những chùm nho dại, những lời thề thốt và những nụ hôn không đơm trái quả. Và những gì còn lại ở những cảm xúc, những hy vọng nhỏ nhoi không sao thỏa mãn nổi, ở đời xanh của mùa thu yêu đương, cho phép „gắng qua“ đan xen vào vòng hoa của thất bại không thể nào gỡ gạc do mùa thu của cảm xúc mang lại cho mùa hè.

Độc giả của bài thơ này, những công dân của một nền văn hóa gợi tình, từng quen với những thiết chế tháo gỡ của cách tránh né xung đột và sự biện hộ cho hành vi vứt bỏ, sẽ khó khăn tiếp cận với mười hai câu thơ này, kể cả khi họ chưa quên đi cách đọc và cách hiểu mang tính lịch sử của những thái độ xử trí như vậy. Thái độ ấy là nỗi buồn - con đẻ của nhận thức -, phải đi mất và phải gạt bỏ đi, nếu người ta muốn là người, nếu người ta muốn sống. Vậy đó, cả nỗi buồn cũng thuộc về quyền ưu đãi của tâm hồn, đã tàn tạ trong cú đổ ngã của những quyền ưu ái ở những năm về cuối. Công viên đồn đã chết thực đã chết.

© Phạm Kỳ Đăng dịch
Nguồn: Hundert Gedichte des Jahrhunderts. Mit Interpretationen. Ausgewählt von Marcel Reich-Ranicki, Insel Verlag Frankfurt am Main und Leipzig 2000, (Một trăm bài thơ thế kỷ kèm bình giảng. Marcel Reich-Ranicki chọn lựa, Nhà xuất bản Insel Verlag Frankfurt am Main và Leipzig 2000)

Chú thích của người dịch:

Stefan George (1868-1933): Nhà thơ Đức, ban đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, sau chủ trường dòng thơ thuần mỹ “ nghệ thuật vị nghệ thuật” quảng bá trong Tờ Nghệ thuật và rồi dần xa lánh, cuối cùng bản thân ông trở thành tâm điểm của một nhóm thơ có quan niệm thẩm mĩ- triết học riêng mang tên mình, “Nhóm George”.

Rainer Gruenter (1929-1993): Giáo sư, tiến sĩ ngữ văn, nhà sử học Đức, từng giữ cương vị hiệu trưởng và giảng dạy ở những trường Đại học Tổng hợp Heidelberg, Köln, Berlin và Mannheim.

(1) Raffael (Raffaello Santi, Raffaello Sanzio, hay Raphael , *1483 – † 1520): Họa sĩ và kiến trúc sư người Ý thời đỉnh điểm Phục hưng.

(2) Stéphane Marllarmé (1842-1898): Nhà văn, nhà thơ Pháp. Những bài thơ của ông được coi là những tác phẩm chính của chủ nghĩa tượng trưng. Cùng với Rimbaud, Verlaine und Baudelaire, ông là một trong những người mở đường quan trọng nhất cho thơ hiện đại.

(3) Hugo Laurenz August Hofmann, Edler von Hofmannsthal (1874-1929): Nhà văn, nhà thơ, kịch tác gia Áo, đại diện quan trọng của phái Suy đồi và Hiện đại Vienna.

(4) Nicolas Poussin (1594 – 1665): Họa sĩ Pháp thời Baroque- Cổ điển, tác phẩm trong sáng lý tính, có nhiều yếu tố cấp tiến gây sự chú tâm nghiên cứu ở các họa sĩ hiện đại từ Paul Cezane, Pablo Picasso tới Francis Bacon.

Hãy vào ngó công viên đồn đã chết

Stefan George (1868-1933) 


Hãy vào ngó công viên đồn đã chết: 
Những triền nước xa le lói ánh cười
Màu lam không chờ của nguyên chất mây trời
Chiếu sáng mặt ao và lối mòn nhiều sắc.

Nhận từ bạch dương và hòang dương nơi đó
Gam phớt vàng, màu non xám; gió mơn man
Nay hồng muộn vẫn còn chưa úa hết
Hãy tinh lựa, hôn lên và kết bó hoa đan.

Cũng đừng quên những bông đồng tiền cuối
Màu tím hồng quanh nho dại dây lan.
Và cũng chút gì ở đời xanh còn lại 

Nhẹ gắng qua trên gương mặt thu tàn.

©Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức:

Komm in den totgesagten park und schau…

Stefan George (1868-1933)

Komm in den totgesagten park und schau:
Der schimmer ferner lächelnder gestade ·
Der reinen wolken unverhofftes blau
Erhellt die weiher und die bunten pfade.

 

Dort nimm das zarte gelb · das weiche grau
Von birken und von buchs · der wind ist lau ·
Die späten rosen welkten noch nicht ganz ·
Erlese, küsse sie und flicht den kranz ·

 

Vergiss auch diese letzten astern nicht ·
Den purpur um die ranken wilder reben ·
Und auch was übrig blieb von grünem leben
Verwinde leicht im herbstlichen gesicht.

Bản tiếng Anh tham khảo:

Come to the Park they said was dead

Stefan George (1868-1933)

Come to the park they said was dead. Pursue:
the shimmer of remote and shining harbors,
of purest clouds' quite unexpected blue
illuminating ponds and colored arbours.

Take here the yellow deep, the subtle grey
of birch and boxwood. Mild are winds today
and latest roses still your eye will find.
Select them, kiss them, and a garland wind:

Do not forget late asters, and embrace
the crimson round the tendrils of wild vine,
and what remains of verdant life, align
and twine to features of your autumn's face.

© PKĐ – 2014 - Bài đăng VHNA

Thứ Sáu, 19 tháng 9, 2014

Mùa thu hương


Tranh của © Amadeo Mogdigliani (1884-1920), họa sĩ Ý

Phạm Kỳ Đăng

Em người đẹp gió mùa thu nhắc
Mùa thu hương vàng mắc tán rừng
Nắng hồn hậu múa mừng nhan sắc
Đóa dung nhan xứ Bắc vô ngần
Là thế đấy dưới hồng trần gió nổi
Trốn tìm nhau trong biến đổi xưa từng
Hoàng hôn cháy ngập ngừng ước hẹn
Khối vàng ngân hoàn vẹn kiên trinh
Xưa dứt áo trên hành trình huyên náo
ngả đời đi. Tiếng đàn sáo hư hình
Mang hoài cảm xốn xang tình ly biệt
Trên trần gian trùng điệp biển dâu
Không tiếng gọi. Trong sương dầu áo gội
Xiết bao vui hôm nay hội tròn trăng
Em vào bước giải khăn hồng vấn vít
Thiết tha tình quấn quýt ánh hoa đăng
Tay cao với kết thân măng kỳ diệu
Áp lưng ta xoay cuốn điệu vũ vòng
Hoa tay nở mở trong lòng hòa sóng
Đồng điệu gương in soi bóng mười mươi
Hồn nhiên sống giấc mơ người yêu dấu
Mãi như em ngọc thốt hoa cười.

© PKĐ -2014

Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

Đầu xuôi thì đuôi cũng lọt

Phóng viên Vỉa Hè phỏng vấn đồng chí Nguyễn Đình Quyền - Phó chủ nhiệm ủy ban tư pháp quốc hội – về việc xử oan sai người dân Nguyễn Thanh Chấn.

Phóng viên: Phát biểu của đồng chí biểu dương năng lực của công an có gì đó vồn vã ngộ nhận. Sau vụ việc bác sĩ Nguyễn Mạnh Tường ném xác vừa thẩm mỹ trôi sông, công an Hà Nội đang mò tìm chưa ra người xấu số, bất thình lình vớt lên 6 xác người khác trên sông Hồng. Vậy đồng chí vẫn giữ nguyên kết luận, cơ quan điều tra Việt Nam phá án giỏi nhất thế giới hay sao?


Nguyễn Đình Quyền: Tất nhiên là như thế chứ! Không chỉ phá án nhanh, các điều tra viên của ta còn nổi tiếng với nghệ thuật hỏi cung nghi phạm. Trước trăm nghìn câu hỏi thấu tình đạt lý đưa ra, phần nhiều nghi phạm phải cúi đầu nhận tội 120%. Khóa trước, tôi có đi cùng chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp sang làm việc gần một tuần với FBI, rõ ràng khả năng phá án của Việt Nam rất giỏi, đặc biệt là các án về an ninh quốc gia, về giết người cướp của. Công an ta tài tình hơn hẳn cảnh sát Mỹ và các nước phương Tây vì các chiến sĩ luôn sâu sát đời sống thực tế, lăn lộn cùng nhân dân.

Phóng viên: Không hổ thẹn với truyền thống bảo vệ an ninh chính trị, thành tích vang dội được ghi trong bảng vàng danh dự với những vụ án chính trị như Ôn Như Hầu, Nhân Văn Giai Phẩm, Chống Đảng v.v. và gần đây là biểu tình chống Trung quốc, khiếu kiện đất đai, các đồng chí đã thủ tiêu, bắt bớ và tù đầy thành phần phản động, chống đối, luôn ở mức vượt chỉ tiêu. Chẳng hay công an ta cũng giỏi phá án hình sự như tham nhũng, cướp giật, hay trộm cắp?

Nguyễn Đình Quyền: Nhận trọng trách Đảng giao phó, trong nhiều thập kỷ qua công an ta vượt qua mọi tình huống khó khăn, nhiệm vụ nào cũng hòan thành xuất sắc. Ổn định chính trị được giữ vững, tình hình đời sống của người dân mỗi ngày một thêm tốt đẹp. Không chỉ là tấm khiên, tấm lá chắn che chở Đảng, các đồng chí còn ngày đêm xông pha giữ cho dân từng tấc đất, ra vào bảo vệ trật tự trị an cho nhân dân phường phố. Nếu được tăng cường thêm lực lượng biên chế và trang bị chuyên ngành, tôi đảm bảo với đồng chí rằng, công an không chùn tay trước bất cứ tội phạm nào, dù đó là tham nhũng, hay biển lận, hay trộm cắp, hiếp dâm, tống tiền. Và trong công tác điều tra những vụ việc hình sự nêu trên, công an ta cũng đạt kỷ lục về thời gian phá án một cách bất ngờ.

Phóng viên: Đồng chí có thể nêu một ví dụ?

Nguyễn Đình Quyền: Tôi nêu ngay một thí dụ để đồng chí an tâm: sớm hôm qua tôi gặp bà khách du lịch người Thụy Sĩ khóc sướt mướt trên đường vì bị giật mất túi xách gần Hàng Bài. Tôi đã ra hiệu cho bà đến cảnh sát phường. Ngay buổi chiều, vào lúc 14 h, công an tươi cười mang trả lại bà túi xách, tiền và các giấy tờ tùy thân. Bà cảm ơn rối rít và chính bà ta nói với tôi rằng công an Việt Nam tận tụy và giỏi nhất thế giới. Công an ta có liên hệ mật thiết với thực tế đời sống, khác hẳn với thái độ quan liêu xa rời nhân dân ở cảnh sát các nước tư bản.

Phóng viên: Công an phường nghe trình báo đã gõ đầu trùm đầu gấu khu vực, và tay này bắt đàn em phải nôn ra trả lại. Cái bà khách du lịch đó thử là người Việt xem sao, có mà chờ đến mùa quýt, hoặc nếu có được trả lại cũng phải trả tiền thưởng cho công an và đầu gấu chia chác. Tôi thấy cảnh sát của những nhà nước dân chủ- pháp quyền nhìn nhận đầu gấu, côn đồ là đối tượng phi pháp, nên tuyệt đối tránh tiếp xúc, coi mọi hình thức chén chú chén anh với chúng là vi phạm pháp luật.

Nguyễn Đình Quyền: Đồng chí lại quên mất tính đặc thù của nhà nước xã hội chủ nghĩa chúng ta là của do dân và vì dân rồi. Không có lực lượng hỗ trợ như dân phòng, thanh niên xung kích và quần chúng tự phát, làm sao công an có thể khống chế được những vụ biểu tình, tụ tập, sao mà kiểm sóat tuyệt đối được an ninh đời sống, đang mỗi ngày một diễn biến thêm phức tạp. Nay thì bắn đạn hoa cải chống lại cưỡng chế thu hồi, mai lại khiếu kiện mất đất. Lại còn biểu tình đòi chủ quyền biển đảo, diễu hành đòi tự do tôn giáo rất mang màu sắc chính trị. Đồng chí có biết, vì sứ mệnh lịch sử được Đảng giao phó, vì an ninh đời sống người dân, có biết bao đồng chí công an khu vực không quản ngại mưa nắng, đêm ngày túc trực vào ra thăm hỏi nhà dân.

Phóng viên: Theo tôi đây cũng là một vi phạm nghiêm trọng nữa về nguyên tắc, được duy trì trong nhiều năm nay. Ở các nước khác, bố bảo công an khu vực cũng không dám bén mảng vào nhà dân, nếu không có trát của tòa hoặc lệnh khám nhà của viện công tố. Lạ là ở ta, nhiều công an khu vực ra vào nhà dân sục sạo không thèm đằng hắng, có khi xộc vào ngồi xổm cả lên bàn thờ tế tự. Các đồng chí ấy biết từng cái bát cái đĩa trong nhà người ta, cho giam người tới 10 năm oan sai, lại không biết mất tới 6 cái xác. Đồng chí có ý kiến gì về điều này?

Nguyễn Đình Quyền: Đây chính là hiện tượng xa rời nhân dân. Công an khu vực nắm vững số nhân khẩu trên địa bàn của mình, lượng người đi người đến tạm trú, thường trú, nhưng trong nhiều trường hợp mắc bệnh quan liêu lơ là sổ sách cập nhật, và nhất là không chịu điều tra cặn kẽ. Người ta trình báo có người đi kéo bè đánh vó ở mạn trên thì cứ thế ghi vào sổ, không chịu tìm hiểu, chừng nào xác nạn nhân chưa nổi, vẫn coi là vậy thôi. Ngòai ra cần rút ra nhiều bài học về thiết chế kiểm sóat. Ví dụ, khi ông điều tra viên tiến hành điều tra, ông thủ trưởng cơ quan phải thường xuyên xem xét, đánh giá ông điều tra viên. Viện kiểm sát thường xuyên kiểm soát hoạt động tư pháp của điều tra viên và ông thủ trưởng cơ quan điều tra. Trong quá trình thực hành công tố, ông công tố lại có quyền kiểm soát lại. Tức là tất cả những thiết chế kiển sát lẫn nhau mà bộ luật Tố tụng hình sự đã đặt ra là phải được thực thi một cách nghiêm chỉnh. Nếu thiết chế đó buông lỏng là có sơ suất xảy ra.

Phóng viên: Công tác điều tra tố tụng cần phải có lộ trình cải cách về cơ bản, hòan tòan khác, dứt khóat không thể sửa theo hướng đồng chí nói. Cũng như đồng chí vậy, lãnh đạo của ngành tư pháp, cụ thể là Viện trưởng viện kiểm sát và Chánh án tòa án tối cao đều là người của công an cả, làm sao họ kỉểm sóat được hành vi của lẫn nhau. Cấp thiết hơn bao giờ hết, ngành tư pháp phải họat động độc lập với lập pháp và hành pháp, và chỉ trong khung pháp lý ấy mới có thể tạo quyền bình đẳng cho các bên công tố, xét xử và bào chữa. Đồng chí có thấy cơ cấu độc quyền đảng trị hiện tồn lọai trừ mọi thiết chế giám sát hay không?

Nguyễn Đình Quyền: Công an là lực lượng ưu tú nhất của nhân dân, nên để cho công an kiêm trị luôn ngành tư pháp là hợp lý. Cũng như đồng chí Trần Đại Quang, hai đồng chí Nguyễn Hòa Bình và Trương Hòa Bình đều là những tướng lĩnh công an kiệt xuất thời nay, trung với Đảng, còn Đảng còn mình. Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, công an chiếm giử vị trí chủ chốt, nên mới phối hợp được các họat động tư pháp từ A-Z một cách đồng bộ. Ngành công an tập trung được mọi chuyên gia, mà đâu chỉ gồm những nhà điều tra. Trong hàng ngũ của chúng tôi, công an tập hợp các nhà tư tưởng, nào nhà triết gia, nào nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nào nhà báo như Hữu Ước, Nguyễn Như Phong, gồm những con người xuất chúng tài trí hơn người.

Phóng viên: Tôi nghĩ, cán bộ phụ trách điều tra ông Nguyễn Thanh Chấn trong nghi án giết người cướp của cách đây 10 năm cũng là người có tài năng đạo diễn xuất sắc. Chẳng hiểu ông ta biên sọan kịch bản và dùng đạo cụ gì khiến ông Nguyễn Thanh Chấn cầm dao diễn tập thực nghiệm hiện trường còn sinh động hơn cả trong đời sống thật. Nên đưa đồng chí ấy sang chỗ đồng chí Hữu Ước kèm cặp phụ đạo thêm về biên kịch và đạo diễn sân khấu, kẻo phí đi một tài năng của ngành văn nghệ công an. Nhân tiện đây tôi cũng băn khoăn rằng cả cái nền văn nghệ báo chí còn được đồng chí Lê Hồng Anh uốn nắn định hướng, nhằm phục vụ ai vậy?


Nguyễn Đình Quyền: Phục vụ nhân dân chứ còn ai nữa. Tất cả mọi họat động của ngành tư pháp công an chúng tôi đều phục vụ đời sống nhân dân ngày thêm ấm no và hạnh phúc. Tuy là Đảng viên và là người cùng ngành, chúng tôi không bao giờ bao che cho nhau.

Phóng viên: Tôi thấy sự thật ngược lại. Dạo nọ một đồng chí giám đốc công an tỉnh bên uống rượu lái xe qua thị trấn tôi ở, đâm bay hai người dân. Một người bay qua kính vỡ lao nửa người vào trong xe. Người kia bay văng ra 20 m. Vài tháng sau, viện kiểm sát hòan thành hồ sơ xử hai người dân kia, khi họ vừa rời bệnh viện. Một người bị truy tố tội đột nhập, còn người kia bị tội gây tai nạn bỏ chạy. Nền tư pháp lập tòa cốt ra án bỏ túi, thế thì người dân chất phác chưa được phổ biến gì về nhân quyền còn có cơ may gì thóat thân, khi tranh tụng trước tòa.

Nguyễn Đình Quyền: Về việc xảy ra oan sai, lãnh đạo ngành công an đã lên tiếng bày tỏ đó là sự cố đáng tiếc. Theo Bộ trưởng Trần Đại Quang, quá trình điều tra, truy tố, xét xử đòi hỏi các cơ quan bảo vệ pháp luật phải tuân thủ nguyên tắc “trọng chứng hơn trọng cung, chứ không phải bóp cung ra từ kịch bản và chứng cứ giả tạo. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, kể cả ở giai đoạn thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm phát hiện và khắc phục kịp thời những sai sót, vi phạm, nhất là oan, sai. Chúng tôi sẽ cố gắng xử đúng người đúng tội, nhưng nay mai tiến hành vài vụ án chính trị nhạy cảm, ngay đến đồng chí Trần Đại Quang và Bộ Chính Trị cũng phải chờ ý kiến của trên. Sắp tới ngành công an đồng lọat dùng giấy vệ sinh hai lớp dầy, vì có quy định, bất cứ giấy tờ gì của công an cũng phải có bản photocopy, dính cái cứt gì cũng phải đưa trình một bản cho Trung quốc.

Phóng viên: Xã hội li lọan, lòng dân bất an, giờ nảy sinh nhiều trộm cướp, giết người, cướp của và lừa đảo. Nhiều phát biểu của các đại biểu quốc hội gần đây lại còn mang màu sắc ngọai cảm nữa. Lãnh đạo cao nhất của Đảng, đồng chí Tổng bí thư vẫn khẳng định con đường tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù không biết hình thù diện mạo nó ra sao trong trăm năm tới. Dư luận cho rằng, nhà ngọai cảm này đã dùng một phán quyết quái dị đóng cái án chung thân cho dân tộc Việt Nam. Đồng chí nghĩ về vấn đề này ra sao?

Nguyễn Đình Quyền: Riêng phía Đảng và Chính quyền nỗ lực thôi chưa đủ. Người dân cũng phải thay đổi chứ. Như đồng chí Tổng bí thư nhận định trong nhiều bài phát biểu, nhân dân thấp kém về dân trí, lập trường mơ hồ, hiểu biết chính trị non yếu, ý thức về pháp luật còn sơ sài nông cạn, và quan trọng hơn, một bộ phận không nhỏ đã suy thóai. Cho nên đối với dân tộc ta, xây dựng CNXH là con đường tất yếu duy nhất, và muốn sớm có XHCN, theo lời Bác Hồ dạy, chúng ta phải cố gắng hơn trong sự nghiệp trăm năm trồng người, cụ thể là cải tạo nhân dân thành con người mới xã hội chủ nghĩa. Ngành tư pháp cũng của công an chúng tôi nguyện đem hết sức mình phục vụ sự nghiệp trồng người vẻ vang này, chừng nào nhân dân chưa yên tâm cải tạo.

Phóng viên: Tôi nghe trong hàng ngũ công an lại còn có những kiến trúc sư đầu ngành nữa. Sắp tới theo gợi ý của một nhà kiến trúc công an, nhiều đồn định xây lại trụ sở tiếp dân có cửa ra chỉ là một cửa sổ rộng 50 cmx50 cm, người đi qua không nổi, chỉ vừa cỗ quan tài lọt qua. Đồng chí có tán thành bản vẽ kiến trúc đó không?

Nguyễn Đình Quyền: Tôi hòan tòan nhất trí. Cứ thông suốt tư tưởng, đầu xuôi thì đuôi cũng lọt, khó gì.

PVVH - 2013

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2014

Trí thức gốc trung thành

Phạm Kỳ Đăng

Người trí thức lên tiếng, phản tỉnh và dấn thân? Điều ấy thuộc về cuộc sống thường hằng như mưa nguồn chớp biển. Xã hội nhân quần chỉ sôi nổi bàn rộ thành đề tài tới mang tai, khi trí thức vắng hẳn tiếng nói trong xã hội nan nguy ầm ầm lao như một cỗ xe tuột dốc không phanh, không cơ chế số lùi trong thiết kế.

Tôi thuộc diện không mấy thiết tha với biệt nhãn nhìn họ ở vị trí được nâng cao hơn tầm xứng đáng. Trí thức khai sáng văn minh, cũng từng xây dựng học thuyết bao biện cho độc tài và những thể chế tàn bạo, từng truy nã tận diệt tư tưởng đối kháng và, ghê rợn nhất, từng có những phát minh công xưởng hóa, dây chuyền hóa sự giết người hàng lọat.

Nếu tôi không lầm, trí thức - nâng tầm văn hóa và cả tận diệt nhân văn- bao gồm rất nhiều giới, hay nói đúng hơn rất nhiều giới làm nên trí thức. Người ta chỉ bàn đến một giới như một giai tầng trí thức ở một xã hội chịu để một đảng nắm chính quyền đi đến tòan trị có tham vọng cải tạo và khuôn đúc mẫu thần dân của nó. Ở nước Nga của Tolstoi và Dostojewski vĩ đại cùng cự tuyệt bạo lực chuyên chính, chính Lênin là một trong những lãnh tụ đầu tiên đòi hỏi cải tạo và xây dựng giới trí thức thành một giới chuyên dụng sau này cho nhà nước đương nhiên coi trí thức là công cụ - như một hệ quả logic của tham vọng cấy trồng người tương lai. Để rèn giũa người, mọi phương tiện giao dịch đều được huy động hết công suất liên thanh „nổ“ khẩu hiệu và giáo điều. Người đứng máy nổ đó, là trí thức, còn ai vào đấy nữa. Như vậy, cùng với thảm họa đốt sách hoặc thuần hóa trí thức bằng trại tập trung hay trại cải tạo, đã từng xảy ra vụ thông đồng hủ lậu kéo dài nhiều thập kỷ giữa người cầm quyền và trí thức. Lãnh tụ ban đầu, e dè và khinh thị, còn coi trí thức bằng hoặc không bằng cục phân. Sau này lãnh tụ của nhà nước Angkar còn không cần phân nữa.

Trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít, nhiều văn nghệ sĩ và triết gia khoa học gia đã chẳng chần chừ hòa mình vào tổ chức chính trị. Gia nhập đảng cộng sản, hậu thế không nên quên những gương mặt chói sáng: Louis Aragon, Joliot-Curie, Pablo Neruda, Pablo Picasso, Paul Eluard, Albert Camus, Jean-Paul Satre, Yvest Monstand v.v.. Aragon tha thiết vì „Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng“. Pablo Picasso vào đảng vì như ông nói, Đảng cộng sản Pháp đã mang lại quê hương cho đời nghệ sĩ lưu vong như ông. Và còn cả rất nhiều trí thức, trước hiểm họa diệt vong nhân lọai, đã cùng đồng hành, kề vai sát cánh gắn bó từng chặng hoặc cả đời với Đảng cộng sản.

Cũng từ bên ngòai, là khách mời tới thăm quê hương Cách mạng tháng Mười hiện hữu sức mạnh đảng chuyên chính công nông, André Gide viết phóng sự „Trở về từ Liên bang Xô-viết“. Picasso, nhiều năm từ chối lời mời, khi lãnh tụ qua đời mới thể theo lời yêu cầu của đảng vẽ chân dung lãnh tụ. Một chân dung mang vẻ vô thưởng vô phạt của bác nông phu, bác hàng thịt vô danh, cơ bản nhất thiếu hẳn đi vẻ nhân từ của cha già dân tộc. Rồi Satre lên án việc xe tăng Xô-viết vào Hungary. Cũng từ bên trong hệ thống của xã hội chủ nghĩa hiện thực, nơi đảng đã độc tôn tiếm quyền và đắc ý độc quyền, nhiều trí thức đã phản tỉnh, phê phán Đảng lại cũng bởi chủ nghĩa cộng sản mang lại đời vong quốc trên chính quê hương của họ. Danh sách này nhiều vô kể.

Gia nhập ở lại hay ly khai khỏi Đảng đều là những họat động dấn thân và tự nguyện của những đầu óc độc lập. Chủ nghĩa cộng sản đã từng là mơ ước, đã từng là lời kêu gọi lương tri, là thuốc phiện và mốt của người trí thức, ở nhiều thời điểm lịch sử như sau Cách mạng tháng Mười, Nội chiến Tây Ban Nha, Thế chiến II và Chiến tranh Việt Nam. Trong tương quan cho phép so sánh sòng phẳng, sự phản ứng của những người Nhân Văn Giai Phẩm, và Chống Đảng không kém phần gay gắt, dẫu cho người bị nạn – như các nạn nhân chung của chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực - đều xác quyết một lòng trung tín. Vì vậy tôi không xếp Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Nguyễn Hộ hay Trần Độ vào đối lập trung thành. Phản ứng của họ quyết liệt và trung thực trong thời điểm chủ nghĩa cộng sản đang còn là kỳ vọng. Ít nhất vào thời điểm này, nếu còn sống, họ sẽ không đưa ra thông điệp thất vọng.

Thất vọng vì nó tiêm liều tê liệt cho mọi vận động, nỗ lực từ mọi tầng lớp đang cố gắng hướng đến giải độc quyền, xây dựng xã hội dân sự. Chỉ trong một xã hội dân sự xây dựng trên cơ sở nhà nuớc pháp quyền, thay thế cho cho một bộ máy nhà nước tòan trị như quái vật chà đạp thần dân, mới có sự tồn tại thật sự của nhà nuớc và công dân. Khi đó can đảm công dân sẽ thôi là đặc quyền hoặc là một thách thức dành cho một thiểu số nào đó nói lời phê phán.

Khi một đảng thôi độc tài, đòi hỏi độc đóan tác quyền bị xóa bỏ, điều kiện khung cho sân chơi sẽ được xác lập cho mọi người dân đều tham gia vào quyền lực và chắc hẳn họ sẽ cử ra người đại diện. Các trí thức, cũng như mọi công dân đều có cơ may tham gia vào sự ủy nhiệm quyền lực đó.

Trong tình thế Đảng vẫn loay hoay cố công chỉnh đốn, liệu người trí thức có thể an ủi vai trò mình là người tạo ra sản phẩm trí tuệ tinh thần, mà không chú trọng vào cân nhắc công và tội. Việc làm của họ phỏng đi đến một kết quả gì nếu người trí thức quên đòi hỏi của một chút gì đó tựa lương năng và khai sáng?

Nhân dân kỳ vọng thì không phải là không chính đáng, đáng ghi nhận hơn là lời dè bỉu eo sèo rất chính đáng về người trí thức có thể tự do nghĩ ngợi, tự đi đứng được mà vẫn chịu áp tải, không giải thóat được ra khỏi tình trạng giám hộ.

Nói ra một câu phân trần cũng là một thỏa hiệp. Sẽ là ngây thơ nếu cho rằng trí thức cần sự lãnh đạo của Đảng bằng pháp luật. Làm gì có điều này, nếu như Đảng nằm trên vòng cương tỏa của luật pháp.

Như vậy băn khoăn vì chưa xuất hiện một giới trí thức ở Việt Nam sẽ không chính đáng bằng tự vấn về sự a dua, về các cuộc thanh trừng và khủng bố trí thức trong thế kỷ qua. Cũng không phải lo lắng vì có thể bơ vơ đứng đường khi Đảng từ bỏ quyền lãnh đạo. Những „trăn trở“ này tố giác suy tư của lớp người trí thức công cụ - thư lại. Đây là lối tư duy của người bị điều kiện hóa, không có khả năng tri nhận độc lập và tất nhiên còn cách xa mọi sự phản tỉnh.

Sự đau đớn trải nghiệm, lẽ dĩ nhiên là cái giá của mọi người phải trả. Thú nhận sự đau đớn còn khó khăn hơn nhiều. Tài năng và danh vọng cực phẩm không làm thay đổi một Günter Grass hầu như suốt đời lên tiếng phản bác đường lối chính trị của nhà nước CHLB Đức. Gần đây báo chí phanh phui quá khứ ông đã từng là người của SS khi còn trai trẻ. Hẳn nhiên vậy, đã trong xã hội tòan trị ai cũng phải can dự cả, có gì đáng gây mặc cảm đụng chạm khủng khiếp lắm đâu. Giá như ông công bố sớm thì người ngưỡng mộ đỡ tiếc cho ông cơ hội bạch hóa đời mình.

Điểm lại dữ kiện và một số hiện tượng từng xảy ra cho cuộc thảo luận, người trí thức có thể thấy nhiều hơn khả năng dung nạp nhau về quan điểm, và viễn tượng hòa giải để đồng tâm hiệp lực ở nhiều phương diện vẫn đợi chờ cũng như còn bỏ ngỏ.

Bài viết của nhà văn Phạm Thị Hòai, đích đáng khắc họa chân dung, đặc sắc về văn phong, đã chụp cắt, quét lớp một nhóm, nhà văn gọi là đối lập trung thành. Khái niệm đối lập trung thành tuy nhiên không cho ta cách nhìn phân liệt hơn về nhiều trí thức và thái độ, mức độ chống đối hoặc phản biện. Cũng như đánh giá không có nghĩa là đưa ra chuẩn xếp hạng cho người trong và ngòai lớp cắt đó. Đã và còn có rất nhiều trí thức quan phương a dua, trùm chăn, phò chính thống nhưng, quý giá vậy thay, có sự hiện diện của những trí thức dấn thân vốn trung thành, xa rộng ra là đối lập vốn chung lý tưởng- bao gồm cả cựu đảng viên, tướng lĩnh, phục viên, lão thành, viên chức hưu trí-. Mọi ý kiến phản tư, phản biện của họ đều đáng đựợc nghiêng mình lắng nghe. Xã hội còn trông chờ vào những ai khác nữa. Dưới góc độ đó, công lao của người trí thức, nhân sĩ xuống đường biểu tình chống cắt cáp, chống xâm lược lãnh hải, chủ quyền, biển Đông trong năm 2011 thật không hề nhỏ chút nào. Sức cổ vũ, thức tỉnh và khai phóng tiềm năng từ tiếng nói phản tỉnh và phản biện của trí thức vốn trung thành đã làm được nhiều việc và hiện cần thiết hơn bao giờ hết.


©PKĐ 2012 – Bài đăng BVN

Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2014

Chúng ta đi trái tim trong cát bụi

Ingeborg Bachmann (1926-1973)

Chúng ta đi, trái tim trong cát bụi  
Tranh của ©Georges Rouault (1871-1958), họa sĩ Pháp
Và từ lâu bởi bất lực, đã sạn chai
Đâu nghe tiếng ta, trong cát bụi rên dài
Mà trách móc, người đời còn quá điếc.

Ta ca hát âm thanh trong lồng ngực
Chưa bao giờ từ nơi đó vọng âm
Chỉ thư thỏang có một người biết được
Chúng ta không bị ép phải dừng chân.

Chúng ta dừng. Thôi lê chân mòn mỏi
Kẻo nữa rồi kết cục cũng hỏng thay
Và hướng mắt, ta nhìn lên Thượng đế:
- Ta chuốc cho ta cuộc giã biệt này.

©Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức

Wir gehen, die Herzen im Staub

Wir gehen, die Herzen im Staub,
und lange schon hart am Versagen.
Man hört uns nur nicht, ist zu taub,
um das Stöhnen im Staub zu beklagen.

Wir singen, den Ton in der Brust.
Dort ist er noch niemals entsprungen.
Nur manchmal hat einer gewusst
wir sind nicht zum Bleiben gezwungen.

Wir halten. Beenden den Trott.
Sonst ist auch das Ende verdorben.
Und richten die Augen auf Gott:
wir haben den Abschied erworben!


 

Đôi nét tiểu sử Ingeborg Bachmann: Nữ thi sĩ Áo sinh năm 1926 tại Klagenfurt - mất trong một tai nạn ở Roma, Ý năm 1973 * Ingeborg Bachmann lấy bằng tiến sĩ Triết học, làm việc tại đài phát thanh Áo. Là một nhà thơ, tiểu thuyết gia và nhà viết tiểu luận, bà nổi tiếng trong văn chương Đức ngữ * Năm 1952, bà đã đọc những bài thơ đầu tay trước "Nhóm 47" và đã được Nhóm này trao tặng một giải thưởng vào năm kế đó * Sau sự kiện đó bà chỉ chuyên chú vào văn chương, viết nhiều tập thơ, kịch truyền thanh, truyện ngắn , rồi mười năm sau, cuốn tiểu thuyết rất đẹp tựa là Malina, được trình bày như "một tác phẩm tiểu thuyết về nhiều cách chết khác nhau"* Những cuốn truyện khác của bà là FranzaKinh cầu hồn cho Fanny Goldmann gây tiếng vang. Bà còn là tác giả tập tiểu luận Những bài giảng ở Frankfurt: Những vấn đề của thơ hiện thời và tập Berlin, một nơi may rủi (với 13 hình vẽ của Gϋnter Grass). * Trong cuộc đời thực, cũng như trong thơ và truyện (Malina), Ingeborg Bachmann bày tỏ tình yêu mến nhà thơ Paul Celan (tác giả của bài thơ Tẩu khúc Tử thần) người bà đã gặp lần đầu tiên vào tháng giêng 1948 tại Vienna, rồi 1950, 1952 và mùa thu 1957. Từ năm 1976, thành phố Klagenfurt trao giải thưởng Ingeborg Bachmann mang tên bà, là một trong những giải thưởng văn chương quan trọng nhất trong khu vực nói tiếng Đức.

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

Người du kích giữa các phe đảng

Walter Hinck

Tại sao nhân vật thần thoại Icarus lôi cuốn sức tưởng tượng của chúng ta nhiều hơn so với người cha Daedalus (*), tại sao người con quả cảm, nhưng đã không tuân thủ lời khuyên của cha và nhào rơi lại hơn người phát minh ra đôi cánh nhân tạo đã thành công thí nghiệm và như vậy cả cuộc chạy trốn qua biển cả thoát khỏi mê cung đảo Crete.

Bởi người thành công tuy gợi lên lòng ngưỡng mộ, nhưng người thất bại lại gợi lên tình thương cảm của chúng ta. Bởi vì cái không hoàn hảo gây xúc động trong ta hơn là cái tuyệt hảo. Bởi vì, cũng hay chính vì trong một thời đại trái đất bao bọc bởi một mạng lưới dầy những tuyến bay, với sự bất an của cuộc tồn thế, chúng ta nhận ra chính mình trong thân phận Icarus hơn là Deadelus?


 
Tranh của ©Merry Joseph Blondel (1781-1853) họa sĩ Pháp

Trong một „Lời nói đầu“ của tập thơ-ca khúc „ Icarus nước Phổ“, Wolf Biermann cũng đã đặt ra câu hỏi tương tự, và khúc ballad này là câu ông đáp lời. Dịp may xuất hiện ba khổ thơ cứ cho là rất ngoại cảnh, nhưng sự hòa đồng bản sắc của Biermann với thần Icarus không như vậy. Một người bạn, theo ông kể, đã phóng máy chụp bức ảnh ông trước con đại bàng nước Phổ đúc bằng sắt trên cầu Weidendammer ở Berlin đã sống qua ngày cuối cùng của nhà nước Phổ. Tấm ảnh, in trên trang phá của cuốn sách, trong một giây lát đánh thức cảm giác như đôi cánh rủ xuống đang mọc trên vai của Biermann. Ít ra cái màn dựng „nửa đùa giỡn“ cấp cảm hứng cho bài ballad này. 


Thế còn ở đâu sự tương ứng với tình thế của vị thần Icarus bị giam cầm trong mê cung, chẳng còn có gì mà sinh nghi ngờ cả: như hòn đảo Crete, nước CHDC Đức một „đảo quốc“, tất nhiên rồi không có sóng cả dồn dập đập quanh, mà kềm cặp quanh bởi dây thép gai và những họng súng máy. Sự tồn tại trong o bế đã trở thành bản thể tự nhiên thứ hai của con người, hàng rào dây thép gai cắt một lát sâu vào tư duy con người. Ở đó thấy được một di sản của thứ tinh thần con đại bàng Phổ ở đây đại diện – một thứ di sản cũng được Bertolt Brecht (1) quan sát : „Những thói quen, luôn còn“, ông ấy (Brecht) đã khái quát một trong những „Bi ca Buckow“. Ông đã bình luận lời hiệu lệnh „Ăn đi“ :“ Con đại bàng Phổ/ Nó chặt cậu trai/ Tống thức ăn vào mồm“.

Biermann tiên cảm, có một lần nào đó cái con chim đáng ghét sẽ giơ vuốt quắp ông, cho ông trở thành một thần Icarus thứ hai. Cái kết của bài ballad là sự nhìn thấy trước sự nhào rơi. Nhưng kết cục này có khác đi sau sự tước quốc tịch Cộng hòa dân chủ Đức vào năm 1976. Ông đã nói về nỗi sợ hãi trước „sự nhào rơi một ngày nào“. „Một ngày tồi tệ nào đó ở phía Tây. Nếu như tôi phải sống ở phía Tây, điều này tôi đã biết, tôi sẽ không bao giờ lại viết thêm một dòng“. Nỗi sợ hãi này đã tỏ ra không có cơ sở.

Dẫu bị lưu đầy, thế đó kẻ trở về Hamburg, nói bằng một nghịch lý của Heinrich Böll (2), đã là một người bị xua-đuổi-về-chốn-quê-hương, và người làm bài hát đã không nghĩ đến chuyện câm tiếng ở phía Tây. Hoàn toàn ngược lại, với những cuộc phỏng vấn, với những bài ca và ballads ông đã dần đưa mình vào tình thế bị ghét bỏ. Người cộng sản không thể khá, con trai của một người thợ xưởng đóng tàu Do thái bị giết chết trong trại tập trung Auschwitz, đã không hề run sợ trước sự thóa mạ và dọa dẫm của những kẻ cực hữu và không để cho bất cứ nhóm nào của cánh tả chia rẽ biến mình thành thánh sống. Ông là người du kích giữa những đường lối của các phe phái và những học thuyết của họ.

Heinrich Heine, bên cạnh Francois Villon (3) và Bertolt Brecht, một trong những người cha tinh thần trong văn học của Biermann, đã tìm ra cho người ca hát tự do Georg Herwegh(4) một hình ảnh chua cay về con chim sơn ca bằng sắt, cất cánh vút lên trời cao, nhưng mà „mất trái đất trong gương mặt“. Người làm bài hát Biermann, cương nghị khẳng định tự do truyền khẩu của cá nhân đã như thần Icarus giữ được mặt đất trong con mắt mình, kể cả khả năng rơi nhào, và thất bại.
 

©Phạm Kỳ Đăng dịch
Nguồn: Hundert Gedichte des Jahrhunderts. Mit Interpretationen (Một trăm bài thơ thế kỷ kèm bình giảng). Ausgewählt von Marcel Reich-Ranicki. Insel Verlag 2000

Khúc ballad về thần Ikarus nước Phổ

1. 

Nơi con phố Friedrich 
soải bước trên dòng nước Spree
vắt trên sông kia cầu Weidendammer
anh khá thấy con đại bàng nước Phổ
mỗi lúc tôi bên lan can đứng đó.

Thì đứng đó thần Ikarus nước Phổ
với đôi cánh xám bằng gang đúc nặng nề
hai cánh tay làm nó nhức tê
không bay đi – không nhào xuống
không đập gió – không làm ra uể oải
trên lan can dòng nước Spree.

2.
Dây thép gai dần lớn đâm xuyên
sâu vào da, vào đùi vào ngực 

vào sọ não, vào tế bào xám xịt
và xiết vòng dây thép ngang lưng
Đất nước chúng ta là một đảo quốc
đập cồn quanh bởi những đợt sóng chì.

Kia đứng đó thần Ikarus nước Phổ
với đôi cánh xám bằng gang đúc nặng nề
hai cánh tay làm nó nhức tê
không bay đi – không nhào xuống
không đập gió – không làm ra uể oải
trên lan can dòng nước Spree.

3.
Và nếu anh muốn bỏ đi, anh phải đi
Tôi đã thấy nhiều người trốn mất
từ đất nước của chúng ta nửa cắt
Tôi trụ chặt nơi đây, cho tới khi
con chim đáng ghét, xổ vuốt ra 

và lạnh lùng kéo tôi qua biên ải.

Thì đứng đó tôi - thần Ikarus nước Phổ
với đôi cánh xám bằng gang đúc nặng nề
hai cánh tay làm tôi đó nhức tê
thì tôi bay cao – rồi sau tôi nhào xuống
đập ít gió – rồi làm thân uể oải
trên lan can dòng nước Spree.

© Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức


Ballade vom preußischen Ikarus

1.
Da, wo die Friedrichstraße sacht
Den Schritt über das Wasser macht
da hängt über der Spree
Die Weidendammerbrücke. Schön
Kannst du da Preußens Adler sehn
wenn ich am Geländer steh

dann steht da der preußische Ikarus
mit grauen Flügeln aus Eisenguß
dem tun seine Arme so weh
er fliegt nicht weg - er stürzt nicht ab
macht keinen Wind - und macht nicht schlapp
am Geländer über der Spree

2.
Der Stacheldraht wächst langsam ein
Tief in die Haut, in Brust und Bein
ins Hirn, in graue Zellen
Umgegürtet mit dem Drahtverband
Ist unser Land ein Inselland
umbrandet von bleiernen Welln

da steht der preußische Ikarus
mit grauen Flügeln aus Eisenguß
dem tun seine Arme so weh
er fliegt nicht hoch - und er stürzt nicht ab
macht keinen Wind - und macht nicht schlapp
am Geländer über der Spree

3.
Und wenn du wegwillst, musst du gehen
Ich hab schon viele abhaun sehen
aus unserm halben Land
Ich halt mich fest hier; bis mich kalt
Dieser verhasste Vogel krallt
und zerrt mich übern Rand

dann bin ich der preußische Ikarus
mit grauen Flügeln aus Eisenguß
dann tun mir die Arme so weh 

dann flieg ich hoch - dann stürz ich ab
mach bisschen Wind - dann mach ich schlapp
am Geländer über der Spree.

Chú thích của người dịch:

Wolf Biermann: Ca sĩ, sáng tác bài hát, nhà thơ, sinh năm 1936 tại Hamburg, con trai một người Do thái ủng hộ cộng sản chết trong trại tập trung Auschwitz *1950 đại diện CHLB Đức ông tham gia Liên hoan thanh thiếu niên thế giới lần đầu tiên tại CHDC Đức *1953 di cư sang Cộng hòa dân chủ Đức (CHDCĐ), học Triết học, Kinh tế-Chính trị học và Toán tại trường Tổng hợp Humboldt (1955-1963) *1957-1959 Trợ lý đạo diễn ở đoàn kịch Berliner Ensemble* 1960 Bắt đầu viết thơ và sáng tác bài hát *Xây dựng nhà hát kịch Công nhân và Sinh viên* 1962 In tập thơ „Những bài thơ tình“ * 1963 Bắt đầu tình bạn với nhà khoa học bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất của CHDC Đức Robert Havermann. *1965 bị chính quyền CHDCĐ cấm biểu diễn và cấm xuất bản với tội danh „Phản bội giai cấp“ và „Tục tĩu“, sau những buổi trình diễn và chuyến du ca dọc CHLB Đức, và đặc biệt sau khi ông in tập thơ Drahtharfe (Thụ cầm dây thép) và ra đĩa hát *Tháng 12 năm 1965 Trung ương Đảng SED ra nghị quyết cấm ông biểu diễn và xuất bản. * Những tập thơ ông xuất bản thuộc về những tác phẩm của văn học hậu chiến được mua nhiều nhất *Sự tước đoạt quốc tịch Wolfs Biermann đẩy ông sang Tây Đức vào năm 1976 gây ra sự phản kháng rộng lớn trong giới trí thức và sinh viên hai miền nước Đức, và từ đó ông như biểu tượng cho giới trí thức phê phán chế độ, phản kháng chủ nghĩa toàn trị ở CHDCĐ.* 1984 Giảng viên thỉnh giảng tại Ohio State University/USA. 1993-1995 Giáo sư thỉnh giảng tại trường Tổng hợp Heinrich-Heine-Universität * Nhận nhiều giải thưởng Văn chương* 2006 Nhận Huân chương chữ thập Liên bang – Bundesverdienstkreuz và 1907 được bầu làm công dân danh dự của Berlin.

Walter Hinck: Sinh năm 1922, nhà ngữ văn Đức giảng dậy tại Viện tiếng Đức và Văn học thuộc Tổng hợp Köln. Năm 1977 ông được bầu vào Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Nordhein-Westfalen.

(*): Icarus và Daedalus hai cha con trong thần thoại Hy lạp.


(1) Bertolt Brecht (1898-1956): Nhà thơ, kịch tác gia Đức.
(2) Heinrich Böll: (1917-1985) Nhà văn Đức, nhận giải Nobel Văn chương năm 1972.
(3) Francois Villon (1431-1463): Nhà thơ Pháp, tác gia quan trọng thời hậu trung cổ.
(4) Georg Friedrich Rudolph Theodor Herwegh (1817-1875): Nhà thơ cách mạng-xã hội chủ nghĩa trước Tháng Ba 1848, đương thời gắn bó với tầng lớp thợ thuyền Đức.


Bài đăng VHNA

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2014

Mùa thu siêu hiện

Tranh của © Emil Nolde, họa sĩ Biểu hiện Đức

Georg Trakl (1887 - 1914)

Với trái vuờn nho óng quả vàng
Hùng vĩ một năm đã kết trang
Quanh cánh rừng im lìm tuyệt diệu
Là đồng sự của kẻ cô đơn.

Người đồng hương nói: Thật là tốt.
Mi chuông chiều nhỏ nhẹ ngân nga
Hồi kết hãy cho niềm quả cảm!
Đàn chim di chào chuyến đi xa.

Thời khắc của yêu nhớ dịu dàng
Trên thuyền buông mái cuối dòng lam

Đẹp sao hình ảnh đan vào ảnh
Yên tĩnh trong câm luống lụi tàn.

© Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức: 

Verklärter Herbst

Georg Trakl (1887 - 1914)

Gewaltig endet so das Jahr
mit goldnem Wein und Frucht der Gärten,
rund schweigen Wälder wunderbar
und sind des Einsamen Gefährten.

Da sagt der Landmann: Es ist gut.
Ihr Abendglocken lang und leise
gebt noch zum Ende frohen Mut.
Ein Vogelzug grüßt auf der Reise.

Es ist der Liebe milde Zeit.
Im Kahn den blauen Fluss hinunter,
wie schön sich Bild an Bildchen reiht -
das geht in Ruh und Schweigen unter.

Bản tiếng Anh:

Transfigured Autumn


Georg Trakl (1887 - 1914)

So the year ends enormously
With golden wine and the fruit of gardens.
All around forests grow wonderfully silent
And are the lonely one's companions.

Then the countryman says: it is good.
You evening bells long and soft
Still give glad courage to the end.
A line of birds greets on the journey.

It is the tender time of love.
In the boat down the blue river
How beautifully image follows image -
Goes under in rest and silence.


Chú thích của người dịch:

Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905 Học xong trung học, được coi là học trò kém, không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakau sau khi dùng cocain quá liều.

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Hôm nay chúng ta đã tiến thêm một bước

Phóng viên Vỉa Hè phỏng vấn Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trước cuộc gặp gỡ nguyên thủ Việt – Mỹ 

Phóng viên: Chủ tịch có thể cho biết ít nhiều về nội dung chương trình họat động của mình trong cuộc gặp nguyên thủ hai nước Việt - Mỹ lần này?  

Trương Tấn Sang: Chiểu theo mong muốn cá nhân tôi, nhiều hồ sơ sẽ được thảo luận trong phòng họp nguyên thủ. Về cơ bản, mục đích của Đảng và Chính phủ ta chủ trương tha thứ cho những tội ác của đế quốc Mỹ và trên cơ sở đó bình thường hóa quan hệ với chính quyền cựu thù, qua đó kêu gọi chính phủ Obama bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.  

Phóng viên: Như vậy người dân Việt Nam có thể trông chờ tham gia Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương cùng với những thỏa thuận hợp tác tòan diện giữa hai chính phủ nhằm nâng cấp quan hệ Việt Mỹ?  

Trương Tấn Sang: Việc nâng cấp quan hệ thì cũng tốt thôi, tuy nhiên chưa xúc tiến ngay được đâu. Giữa ta và Mỹ vẫn còn nhiều rào cản, nhiều vấn đề nhậy cảm, không đơn giản dễ giải quyết theo tình anh em như với Trung quốc tại chuyến đi Bắc Kinh vừa qua, đồng chí thấy đấy. Sang đó bạn đã thảo và in sẵn cho ta mọi văn bản ký kết, kể cả Tuyên bố chung, tôi chỉ việc cầm bút ký vào là xong. Trong tương lai việc triển khai quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược Việt Nam - Trung Quốc thuận lợi vô cùng trên một lộ trình lập có hệ thống, trên cơ sở tình hữu nghị đảm bảo bằng Mười sáu chữ vàng và Bốn tốt.  

Phóng viên: Có phải vì mọi việc trơn tru như thế nên đồng chí vô tư cúi rạp đầu quy thuận?  

Trương Tấn Sang: Lòng tôi vui lắm chớ. Tại Bắc Kinh đêm trước bạn bố trí tôi ngủ lại đúng căn phòng của Hồ Chủ tịch nghỉ lại khi xưa sang thăm Trung hoa. Nhìn đầu giường vẫn còn mấy bài từ của Mao Trạch Đông và cuốn Mao tuyển còn lưu dấu trang Người đọc, sau này cô bác sĩ riêng của Chủ tịch Tập Cận Bình nói lại, tim tôi đập bồi hồi khôn tả, nó sa xuống gần hậu môn. Chiếc đèn cổ đọc sách còn nguyên, nhưng cháy mất bóng. Trong bóng tối nhập nhọang, cô ta lọ mọ tiêm thuốc an thần chọc nhầm ngay vào gáy, nên hôm duyệt đội danh dự cùng Chủ tịch Tập Cận Bình, tuy tôi kiêu hãnh vô cùng, vẫn không ngóc cổ lên được là vì vậy.  

Phóng viên: Trong cuộc gặp thượng đỉnh này, phải chăng Chủ tịch có đặt vấn đề đàm phán về an ninh hàng hải và giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông?  

Trương Tấn Sang: Cơ bản là ta đưa một thông điệp cho chính quyền Mỹ về chủ quyền biển Đông do ta và Trung quốc cùng nhau quản lý. Có thể có những họat động của hải giám, ngư chính địa phương Hải Nam bắt tàu, phá xuống của ngư dân ta. Nhưng trong tương lai sẽ ngăn chặn được những chuyện này qua đường dây nóng.  

Phóng viên: Lần trước Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã cất cao tiếng nói mạnh mẽ và hết sức tự hào về việc làm phân hóa nội bộ chính quyền Tổng thống Obama. Lần này Chủ tịch có tiếp tục làm công tác đó?  

Trương Tấn Sang: Chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã hòan thành xuất sắc công việc của mình. Ngày hôm nay, tôi chỉ làm công tác phân hóa nội bộ những thế lực phản động người Việt trong và ngòai nước, đặc biệt ở Hoa kỳ. Trung quốc mới bán xích và khóa tù cho ta, nhưng Mỹ mới là đất nước cung cấp vũ khí sát thương và dùi cui tân tiến. Vừa qua tôi đã phong nhiều hàm tướng lĩnh trong công an và quân đội. Những tướng tài như Đỗ Hữu Ca và Tô Lâm vốn là hung thần với các phần tử chống đối, cùng danh tướng Nguyễn Chí Vịnh mưu lược tài tình sẽ áp dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự cách mạng, giáng cho các lực lượng chống đối, biểu tình, các thế lực phản động và thù địch những đòn sấm sét. Thế tiến công của Đảng Cộng sản Việt Nam chúng ta sau những cuộc chỉnh đốn làm trong sạch và kiện tòan đội ngũ mạnh hơn bao giờ hết. Ngày hôm qua chúng ta còn đứng bên bờ vực thẳm, ngày hôm nay chúng ta đã bước thêm một bước.  

Phóng viên: Đồng chí có lo ngại gì chăng khi được hỏi về những vụ đàn áp tôn giáo và sự chà đạp tự do tín ngưỡng?  

Trương Tấn Sang: Không có chuyện đó đâu. Trong đòan tháp tùng lần này còn có nhiều vị tu hành thành phần cơ bản, có công với cách mạng, và có lập trường chính trị vững vàng. Cho nên bà con cô bác cứ yên tâm, các chức sắc tôn giáo của Việt Nam đi theo đòan sẽ trao đổi thẳng thắn và cởi mở với các nghị sĩ và các tổ chức phi chính phủ có nhiều thành kiến và quan ngại về những vi phạm tự do tôn giáo tại Việt Nam.  

Phóng viên: Còn vấn đề tự do báo chí, tự do lập hiệp hội, nhân quyền v.v. Chủ tịch sẽ nói gì với tổng thống Mỹ về việc tùy tiện sách nhiễu, giam giữ và hành hạ Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hữu Cầu, Mai Thị Dung, Cha Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha cùng nhiều tù nhân lương tâm nữa?  

Trương Tấn Sang: Về nhân quyền chúng ta có quan niệm rất khác với Mỹ và các chính phủ phương Tây. Chúng ta cần nhiều thời gian để thuyết phục họ theo ta. Người dân Việt Nam tha hồ mưu cầu hạnh phúc, còn việc đại sự đã có Đảng và nhà nước lo. Mỹ cũng bắt bớ những thành phần khủng bố, cũng nghe lén điện thọai và giám sát truyền thông, như Edward Snowden tiết lộ, đấy thôi.  

Phóng viên: Thưa Chủ tịch, bỏ qua những vụ bê bối đó, chính phủ Mỹ vẫn là chính phủ được người dân bầu ra, và họat động của các cơ quan mật vụ chịu sự giám sát của quốc hội?  

Trương Tấn Sang: Chính quyền ta cũng là chính quyền nhân dân, và quốc hội của ta cũng là một tập hợp dân chủ biểu lộ ý chí của nhân dân một lòng ủng hộ đường lối của Đảng. Như vậy hai nền dân chủ có khác nhau là mấy.  

Phóng viên: Tức theo ý Chủ tịch sự khác biệt giữa nền dân chủ tư sản và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa giống sự khác biệt giữa một chiếc ghế và một chiếc ghế điện?  

Trương Tấn Sang: Đúng dzậy! Đại khái cũng na ná như nhau dzậy thôi mà!  

Phóng viên: Cảm ơn Chủ tịch Trương Tấn Sang.  

PVVH-2013

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...