Thứ Hai, 24 tháng 9, 2018

Tháng Tám

Hermann Hesse (1877–1962)

Tranh Henri Manguin (1874-1949)

Đó ngày đẹp nhất trong mùa hạ
Trước ngôi nhà êm ả, thơm hương
Giờ thoáng vỗ cánh chim man mác
Ngày dư âm, không trở lại, du dương.

Giếng vàng kim trong giờ khắc ấy
Thịnh soạn trong rực đỏ huy hoàng
Mùa hạ dốc ra từ chiếc sừng vàng
Đầy đặn tưới, và liên hoan đêm cuối.

©®Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

August

Hermann Hesse (1877–1962)

Das war des Sommers schönster Tag
Nun klingt er vor dem stillen Haus
in Duft und süßem Vogelschlag
unwiederbringlich leise aus.

In dieser Stunde goldnen Born
gießt schwelgerisch in roter Pracht
der Sommer aus sein volles Horn
und feiert seine letzte Nacht.

Chú thích của người dịch:

Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói thảo nguyên) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.

Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.

Tác phẩm:

Thơ:
– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ 


Văn xuôi:
- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch.
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.
- Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch.
- Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông.
- Sói đồng hoang (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết.
- Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.

Tranh Henri Manguin (* 23. 03 1874; † 25.09.1949): Họa sĩ Pháp, tác phẩm được xếp vào phái Dã thú (Fauvism).

Thứ Năm, 20 tháng 9, 2018

Đứng trong giấc mơ tăm tối

Heinrich Heine (1797-1856)  

Tranh Alexej von Jawlensky, hs Nga

Đứng trong giấc mơ tăm tối
Tôi nhìn trân trối ảnh hình
Và gương mặt nàng yêu dấu
Bắt đầu lặng lẽ hồi sinh.

Quanh khóe môi nàng chúm chím
Một nụ cười mới tuyệt xinh
Như tự sầu thương dòng lệ
Sáng ngời đôi mắt long lanh.

Và tôi trên đôi má cũng
Những giọt nước mắt tuôn rơi
Ôi chao, không sao tin được
Rằng anh đã mất em rồi.

(Khúc XXIII - Trở về - Tập Tình Ca / Heimkehr – Buch der Lieder)

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Ich stand in dunkeln Träumen

Heinrich Heine (1797-1856)

Ich stand in dunkeln Träumen
Und starrte ihr Bildnis an,
Und das geliebte Antlitz
Heimlich zu leben begann.

Um ihre Lippen zog sich
Ein Lächeln wunderbar,
Und wie von Wehmutstränen
Erglänzte ihr Augenpaar.

Auch meine Tränen flossen
Mir von den Wangen herab -
Und ach, ich kann es nicht glauben,
Daß ich dich verloren hab!

( Khúc XXIII - Trở về - Tập Tình Ca / Heimkehr – Buch der Lieder)

Chú thích của người dịch:

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

George Sand viết về Heine:

„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."

„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand)

Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:

"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy xử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta sẽ nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“

„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“

Tranh của Alexej von Jawlensky (Alexei Georgijewitsch Jawlenski; russisch Алексей Георгиевич Явленский, wiss. Transliteration Alexej Georgievič Javlenskij; * 1865 - 1941, Họa sĩ Nga, thuộc phái Biểu hiện (Expressionism) xung quanh nhóm Kỵ sĩ xanh của Wassily Kandinsky và Franz Marc.

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2018

Rainer Maria Rilke (1875-1926) 

Tranh © Karl-Schmidt Rottluff (1884-1976)
II.

Tôi ngẫm nghĩ: về một ngôi làng nhỏ
dung dị trong vẻ rạng rỡ thái bình
nơi te te gà gáy
và ngôi làng này mất hút
trong tuyết bông.
Và nơi đó trong làng, mang vẻ mặt ngày chúa nhật
có một ngôi nhà nhỏ xinh;
từ rèm ren bất chợt
nhô ra một cái đầu mái tóc vàng -
Hối hả ngóng lối cửa vào
hắng giọng khản kêu nhờ giúp đỡ,
và kế đó nơi khuê phòng nhè nhẹ đưa
mùi oải hương ngan ngát...

III.

Với tôi như thể thuộc riêng tôi ngôi nhà nhỏ
tôi ngồi trước cửa canh khuya
nếu như sau những cành cây tím
khi văng vẳng dế đàn
mặt trời đỏ đi vào cõi chết.

Mái rêu phong màu nhung- diệp lục
như chiếc mũ chụp lên ngôi nhà
và những ô kính nhỏ, đóng khung dầy,
đổ viền chì,
bốc lửa
theo những tiếng chào nóng ran ngày nhật.

Tôi đã mơ và con mắt tôi rà soát
tới những ngôi sao nhợt nhạt,-
từ ngôi làng một tiếng chào e dè
và một con bướm đi hoang chao cánh
trên cành hoa nhài óng ánh tuyết băng.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.

Träumen

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

II.

ICH denke an:
Ein Dörfchen schlicht in des Friedens Prangen,
drin Hahngekräh;
und dieses Dörfchen verloren gegangen
im Blütenschnee.
Und drin im Dörfchen mit Sonntagsmienen
ein kleines Haus;
ein Blondkopf nickt aus den Tüllgardinen
verstohlen heraus.
Rasch auf die Türe, die angelheiser
um Hilfe ruft, –
und dann in der Stube ein leiser, leiser
Lavendelduft ...

III.

MIR ist: ein Häuschen wär mein eigen;
vor seiner Türe säss ich spät,
wenn hinter violetten Zweigen
bei halbverhalltem Grillengeigen
die rote Sonne sterben geht.

Wie eine Mütze grünlich-samten
steht meinem Haus das moosge Dach,
und seine kleinen, dickumrammten
und blankverbleiten Scheiben flammten
dem Tage heiße Grüsse nach.

Ich träumte, und mein Auge langte
schon nach den blassen Sternen hin, –
vom Dorfe her ein Ave bangte,
und ein verlorner Falter schwankte
im schneeig schimmernden Jasmin.

(Aus Traumgekrönt – Rút từ tập Đăng quang trong mơ)

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Karl-Schmidt Rottluff (1884-1976): Họa sĩ nhà đồ họa, điêu khắc, đại diện quan trọng của Chủ nghĩa Biểu hiện (Expressionism) Đức.

Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2018

Hãy giấu che anh

Gottfried Benn (1886-1956)  

Tranh © Julius Bisser (1893-1965): Họa sĩ Đức

Hãy bọc kín anh bằng phấn son và mặt nạ
và nheo mắt nhìn như rối loạn nhãn quang,
Đừng bao giờ cho thấu sự tồn tại, thăng trầm của anh
đang nhô lên khỏi sự tròn trịa của diện mạo.

Trong ánh sáng cuối cùng, qua những khu vườn ảm đạm
nơi bầu trời, bãi sỏi đá của đám cháy và màn đêm
Hãy giấu che anh, nước mắt và sự khắc nghiệt;
họ không được phép nhìn da thịt đã làm nên.

Hãy che đi phân cách, rạn nứt và chuyển tiếp,
Hạt nhân, nơi với anh sự hủy hoại xảy ra
Hãy làm ra như thể từ một chiếc ghe,
ai cũng thấy, tiếng hát xa xăm vọng tới.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Verhülle dich

Gottfried Benn (1886-1956)

Verhülle dich mit Masken und mit Schminken,
auch blinzle wie gestörten Augenlichts,
lass nie erblicken, wie dein Sein, dein Sinken
sich abhebt von dem Rund des Angesichts.

Im letzten Licht, vorbei an trüben Gärten,
der Himmel ein Geröll aus Brand und Nacht –
verhülle dich, die Tränen und die Härten,
das Fleisch darf man nicht sehn, das dies vollbracht.

Die Spaltungen, den Riss, die Übergänge,
den Kern, wo die Zerstörung dir geschieht,
verhülle, tu, als ob die Ferngesänge
aus einer Gondel gehn, die jeder sieht.

Chú thích của người dịch

Gottfried Benn (1886-1956): Nhà thơ, nhà tiểu luận, bác sĩ Đức, thuộc số ít nhà thơ nổi tiếng nhất nửa đầu thế kỷ 20. Như nhiều trí thức nghệ sĩ trong chế độ toàn trị (ở cương vị và mức độ biểu hiện khác nhau như Martin Heidegger, Herbert von Karajan, Emil Nolde...), ông mắc một số ngộ nhận, sai lầm trong nhận thức chính trị. Ông đã từng bảo vệ Chủ nghĩa Xã hội quốc gia (Nationalsozialismus) hy vọng trong đó sự tái sinh của dân tộc Đức, ông xiển dương Friedrich Nietzsche trong thơ và kêu gọi tầm vóc nam nhi - anh hùng, chủ trương một „Vương quốc của tinh thần“ đối đầu lại „Vương quốc của quyền lực“ Quốc xã. Tuy nhiên ông bị khai trừ khỏi Viện điển thư quốc gia (Reichsschrifttumskammer) do Goebbels thành lập, bị công kích và cấm viết dưới chế độ phát xít. Ông lặng lẽ sống, như ông nói, trong cảnh lưu đầy nội tâm.

Thế hệ nhà văn sau chiến tranh thông cảm và ngưỡng mộ ông bởi phong cách hiện đại. Năm 1951 Gottfried Benn nhận giải thưởng văn học Georg-Büchner.

Khởi điểm sáng tác: Nietzsche, Chủ nghĩa Biểu hiện, Vỡ mộng, Phủ nhận những thế giới quan lưu truyền. Gây ảnh hưởng quyết định tới thế hệ nhà thơ kế cận. Ở những bài thơ đầu tay, một cách khiêu khích, lay chuyển hình dung cứng nhắc về thơ trữ tình: hiện thực tàn bạo của thế giới của nhà xác và nhà thương; sự sắp đặt bên nhau một cách phi tình cảm những ảnh hình của bệnh tật và tàn tạ thể xác không hàm ý „Vương miện của sáng thế, con lợn, con người“. Cái tôi trôi nổi, mất dần trong một thế giới phi lý...

Tranh của © Julius Bisser (1893-1965): Họa sĩ Đức.

Thứ Bảy, 1 tháng 9, 2018

Cây trong mùa thu

Hermann Hesse (1877–1962)

Tranh © Isaak Iljitsch Lewitan, họa sĩ Nga

Còn tuyệt vọng với những đêm lạnh lẽo
Tháng mười, đang giành giật áo xanh,
Cây của tôi. Mang theo suốt mùa trăng
Vui tươi, áo trên thân, cây đâu nỡ
Cây thích được dấu yêu gìn giữ.

Và lại một đêm và lại một
ngày khắc nghiệt. Cây trở nên mỏi mệt
không còn đấu tranh, và thả cho ý chí lạ,
Cây hờ hững buông lỏng đốt cành
Cho đến khi bị hoàn toàn khuất phục.

Nhưng giờ đây vàng óng ánh cây cười
Và thỏa lòng an lạc trong xanh trời,
Bởi gắng gỏi cây đương đầu sự chết,
Nên mùa thu, mùa thu dịu mát
Đã điểm chuốt nên vẻ rực rỡ tinh khôi.

©®Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Baum im Herbst

Hermann Hesse (1877–1962)

Noch ringt verzweifelt mit den kalten
Oktobernächten um sein grünes Kleid
Mein Baum. Er liebt´s, ihm ist es leid,
Er trug es fröhliche Monde lang,
Er möchte es gern behalten.

Und wieder eine Nacht, und wieder
Ein rauher Tag. Der Baum wird matt
Und kämpft nicht mehr und gibt die Glieder
Gelöst dem fremden Willen hin,
Bis der ihn ganz bezwungen hat.

Nun aber lacht er golden rot
Und ruht im Blauen tief beglückt.
Da er sich müd dem Sterben bot,
Hat ihn der Herbt, der milde Herbst
Zu neuer Herrlichkeit geschmückt.

Chú thích của người dịch:

Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói đồng hoang) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.
Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.

Tác phẩm
Thơ:
– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ

Văn xuôi:
- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch.
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.
- Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch.
- Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông.
- Sói đồng hoang (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết.
- Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.

Tranh của Isaak Iljitsch Lewitan (russisch Исаак Ильич Левитан, (1860-1900): Họa sĩ Nga-Do Thái.

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...