Tranh © Claude Monet |
...
Trái tim tôi như nhà nguyện quên lãng;
Trên điện thờ, một tháng Năm hoang dại khoe khoang,
Cơn giông tố tựa cậu học nghề ngỗ ngược
tự bao giờ đập những ô cửa nhỏ nát tan;
Và giờ đây len lỏi vào tới gian đồ cúng lễ,
ở nơi đó kéo vòng tay hầu tế.
Tiếng la ao ước rụt rè của chuông lảnh lói
gọi tới đài hiến tế từ lâu đã mất thói quen
tới nơi xa, Đức Chúa bực bội, ngạc nhiên.
Vì thế gió rộ cười và lả lướt qua ô cửa sổ,
Người thịnh nộ túm lấy chùm âm vang, vậy đó
quất vào tường đá lát vỡ tan.
Những nguyện ước nhỏ nhoi quì trong hàng dài dặc
Trước cổng, nơi bậu cửa rêu phủ, cầu xin
Mà vậy đó từ lâu
Chẳng còn vãng lai một kẻ nguyện cầu.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
I.
...
Mein Herz gleicht der vergessenen Kapelle;
auf dem Altare prahlt ein wilder Mai.
Der Sturm, der übermütige Geselle,
brach längst die kleinen Fenster schon entzwei;
er schleicht herein jetzt bis zur Sakristei
und zerrt dort an der Ministrantenschelle.
Der schrillen Glocke zager Sehnsuchtsschrei
ruft zu der längst entwöhnten Opferstelle
den arg erstaunten fernen Gott herbei.
Da lacht der Wind und hüpft durchs Fenster frei.
Doch der Erzürnte packt des Klanges Welle
und schmettert an den Fliesen sie entzwei.
Und arme Wünsche knien in langer Reih
vorm Tor und betteln an vermooster Schwelle.
Doch längst schon geht kein Beter mehr vorbei.
(Aus Traumgekrönt – Rút từ tập Đăng quang trong mơ)
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Nhà thờ Rouen - Tranh của Claude Monet (1840-1926) Họa sĩ tiêu biểu và sáng tạo của phái Ấn tượng Pháp.