Tranh ©
Karl-Schmidt Rottluff (1884-1976)
|
Tôi ngẫm nghĩ: về một ngôi làng nhỏ
dung dị trong vẻ rạng rỡ thái bình
nơi te te gà gáy
và ngôi làng này mất hút
trong tuyết bông.
Và nơi đó trong làng, mang vẻ mặt ngày chúa nhật
có một ngôi nhà nhỏ xinh;
từ rèm ren bất chợt
nhô ra một cái đầu mái tóc vàng -
Hối hả ngóng lối cửa vào
hắng giọng khản kêu nhờ giúp đỡ,
và kế đó nơi khuê phòng nhè nhẹ đưa
mùi oải hương ngan ngát...
III.
Với tôi như thể thuộc riêng tôi ngôi nhà nhỏ
tôi ngồi trước cửa canh khuya
nếu như sau những cành cây tím
khi văng vẳng dế đàn
mặt trời đỏ đi vào cõi chết.
Mái rêu phong màu nhung- diệp lục
như chiếc mũ chụp lên ngôi nhà
và những ô kính nhỏ, đóng khung dầy,
đổ viền chì,
bốc lửa
theo những tiếng chào nóng ran ngày nhật.
Tôi đã mơ và con mắt tôi rà soát
tới những ngôi sao nhợt nhạt,-
từ ngôi làng một tiếng chào e dè
và một con bướm đi hoang chao cánh
trên cành hoa nhài óng ánh tuyết băng.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
II.
ICH denke an:
Ein Dörfchen schlicht in des Friedens Prangen,
drin Hahngekräh;
und dieses Dörfchen verloren gegangen
im Blütenschnee.
Und drin im Dörfchen mit Sonntagsmienen
ein kleines Haus;
ein Blondkopf nickt aus den Tüllgardinen
verstohlen heraus.
Rasch auf die Türe, die angelheiser
um Hilfe ruft, –
und dann in der Stube ein leiser, leiser
Lavendelduft ...
III.
MIR ist: ein Häuschen wär mein eigen;
vor seiner Türe säss ich spät,
wenn hinter violetten Zweigen
bei halbverhalltem Grillengeigen
die rote Sonne sterben geht.
Wie eine Mütze grünlich-samten
steht meinem Haus das moosge Dach,
und seine kleinen, dickumrammten
und blankverbleiten Scheiben flammten
dem Tage heiße Grüsse nach.
Ich träumte, und mein Auge langte
schon nach den blassen Sternen hin, –
vom Dorfe her ein Ave bangte,
und ein verlorner Falter schwankte
im schneeig schimmernden Jasmin.
(Aus Traumgekrönt – Rút từ tập Đăng quang trong mơ)
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Karl-Schmidt Rottluff (1884-1976): Họa sĩ nhà đồ họa, điêu khắc, đại diện quan trọng của Chủ nghĩa Biểu hiện (Expressionism) Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét