Tranh © Edvard Munch (1863-1944): Họa sĩ Na Uy
|
Chúng tôi dạo vào vào trời đêm tỏa ánh
qua con đường trắng - những cây thanh tùng,
Em có những giấc mơ sâu vậy, thẳm cùng
Và kết nên một vòng hoa trắng.
Nào tới đây, em mệt mỏi: Dừng chân ngắn ngủi
Em mỉm cười vào những miền xa nóng
Em mỉm cười tới những ngôi sao đầu tiên
Và anh biết, em mang đau đớn ưu phiền.
Anh khao khát vậy là... Em hiểu -
Và nỗi khát khao này chỉ kết thúc mà thôi
Nếu như em với đôi tay êm, mỏi mệt
khâu chiếc chăn đầu tiên phủ trên nôi.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Abendgang
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Wir wandeln in den Abendglanz
den weissen Weg durch - Taxusbäume,
du hast so tiefe, tiefe Träume
und windest einen weissen Kranz.
Komm, du bist müde. Kurze Rast:
Du lächelst in die heissen Fernen,
du lächelst zu den ersten Sternen,
und ich weiss, dass du Schmerzen hast.
Ich sehne mich so ... Du verstehst. -
Und dieses Sehnen wird erst enden,
wenn du mit leisen, müden Händen
die erste Wiegendecke nähst.
(Sämmtliche Werke)
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Edvard Munch (1863-1944): Họa sĩ Na Uy, tác phẩm mang nhiều dấu ấn của phái Tượng trưng, ảnh hưởng lớn tới hội họa châu Âu hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét