Thứ Tư, 7 tháng 3, 2018

Anh từng phải nghĩ

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Tranh ©Sinaida Jewgenjewna (1884-1967)

Anh từng phải lan man nghĩ, như có lần
anh đã thấy mùa xuân sâu mơ tưởng
giữa những hàng thông đen,
khi anh đứng trước nhan sắc em
và qua những hàng kẻ sẫm của làn ngôi
gương mặt em mơ như một đất nước.

Từ viền môi em lan ra
rất êm ái một nụ cười trên con đường mất hút.
Những người khác hồ như không hay biết,
Thế đấy một chiếc lá cây phấn hoa lay:
Chỉ một người nhìn ơn phước xuân nay,
người nhìn ngắm như ở trong giấc mộng.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Ich mußte denken

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Ich mußte denken unverwandt,
wie ich einst zwischen schwarzen Pinien
den tiefen Frühling sinnen fand,
als ich vor deiner Schönheit stand
und durch der Scheitel dunkle Linien
dein Antlitz träumte wie ein Land.

Es schlich von deiner Lippen Saum
ein Lächeln auf verlornem Pfade –
ganz leis. Die andern merktens kaum.
So weht ein Blatt vom Blütenbaum:
Nur einer schaut die Frühlingsgnade,
und der sie schaut, ist wie im Traum.

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Sinaida Jewgenjewna Serebrjakowa (Зинаи́да Евге́ньевна Серебряко́ва (1884-1967): Nữ họa sĩ Nga, đại diện của phái Ấn tượng, từ 1924 sống lưu vong tại Pháp. Sau khi bà mất, một phần tác phẩm được đưa trở về Liên Xô.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...