Trong những thành phố nhỏ nọ, xúm xít
những ngôi nhà cổ xưa chầu quanh như chợ Tết
bỗng chốc nhận ra tòa thánh và giật mình,
đóng cửa quầy và đóng kín, lặng thinh;
Kẻ rao hàng lặng im, ngưng nhịp trống,
tai hồi hộp hướng lên cao nghe ngóng,
trong khi tòa thánh im ắng vẫn như xưa,-
áo choàng nhiều nếp phủ dầm trụ đứng trơ
và không biết gì về những ngôi nhà khác:
Bạn có thể thấy trong những thành phố nọ,
những tòa thánh, trong phạm vi giao tiếp của mình
sao mới chênh vênh nổi trội. Sự hồi sinh
của chúng vượt trên tất cả; như sự quá gần cận
liên tục vượt trên tầm mắt của đời riêng chiếc,
và như không gì khác xảy ra; như thể là số kiếp
trong vạn vật, không kích thước, tụ dồn
hóa đá và được ấn định cho trường tồn,
không là thứ, những gì dưới kia tăm tối phố phường
do ngẫu nhiên nhận cái tên nào đó
và đi vào trong, như trẻ con áo màu xanh đỏ
và ông chủ tiệm mang ra khoác chiếc tạp dề.
Đó là cuộc sinh ra trong những chứng từ
và sức lực và hối thúc trong nhô cánh
là muôn nơi tình yêu, như rượu vang và bánh,
và những cổng vòm đầy than khóc tình yêu,
cuộc đời chần chừ trong giờ khắc điểm chiều,
và trong những tháp chuông, đầy từ khước
đột nhiên chẳng còn dâng lên, là cái chết.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Die Kathedrale
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
In jenen kleinen Städten, wo herum
die alten Häuser wie ein Jahrmarkt hocken,
der sie bemerkt hat plötzlich und, erschrocken.
die Buden zumacht und, ganz zu und stumm,
die Schreier still, die Trommeln angehalten,
zu ihr hinaufhorcht aufgeregten Ohrs -:
dieweil sie ruhig immer in dem alten
Faltenmantel ihrer Contreforts
dasteht und von den Häusern gar nicht weiß:
in jenen kleinen Städten kannst du sehn,
wie sehr entwachsen ihrem Umgangskreis
die Kathedralen waren. Ihr Erstehn
ging über alles fort, so wie den Blick
des eignen Lebens viel zu große Nähe
fortwährend übersteigt, und als geschähe
nichts anderes; als wäre Das Geschick,
was sich in ihnen aufhäuft ohne Maßen,
versteinert und zum Dauernden bestimmt,
nicht Das, was unten in den dunkeln Straßen
vom Zufall irgendwelche Namen nimmt
und darin geht, wie Kinder Grün und Rot
und was der Krämer hat als Schürze tragen.
Da war Geburt in diesen Unterlagen,
und Kraft und Andrang war in diesem Ragen
und Liebe überall wie Wein und Brot,
und die Portale voller Liebesklagen.
Das Leben zögerte im Stundenschlagen,
und in den Türmen, welche voll Entsagen
auf einmal nicht mehr stiegen, war der Tod.
Bản tiếng Anh:
The Cathedral
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
In those small towns where, clustered round about,
old houses squat and jostle like a fair,
that's just caught sight of it, and then and there
shut up the stalls, and, silenced every shout,
the criers still, the drum-sticks all suspended,
stands gazing up at it with straining ears:
while it, as calm as ever, in the splendid
wrinkled buttress-mantle rears
itself above the homes it never knew:
in those small towns you come to realise
how the cathedrals utterly outgrew
their whole environment. Their birth and rise,
as our own life's too great proximity
will mount beyond our vision and our sense
of other happenings, took precedence
of all things; as though that were history,
piled up in their immeasurable masses
in petrification safe from circumstance,
not that, which down among the dark streets passes
and takes whatever name is given by chance
and goes in that, as children green or red,
or what the dealer has, wear in rotation.
For birth was here, within this deep foundation,
and strength and purpose in this aspiration,
and love, like bread and wine, was all around,
and porches full of lover's lamentation.
In the tolled hours was heard life's hesitation,
and in those towers that, full of resignation,
ceased all at once from climbing, death was found.
(Translated by Jessie Lamont)
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Camille Pissarro (1830 - 1903): Họa sĩ tiêu biểu phái Ấn tượng Pháp.