Một nhà thương cho người Do thái nghèo, ốm,
Con loài người, những kẻ cùng cực gấp ba;
Vận vào ba chứng độc ác quỉ ma,
Nghèo, thể xác đau và Do thái giáo.
Con loài người, những kẻ cùng cực gấp ba;
Vận vào ba chứng độc ác quỉ ma,
Nghèo, thể xác đau và Do thái giáo.
Thứ tệ nhất trong cả ba là chứng cuối
Nỗi ô nhục gia đình dai dẳng ngàn năm,
Từ thung lũng sông Nil mang theo tai họa
Tín ngưỡng Ai Cập cổ oái oăm.
Nỗi cùng cực nan y, không sao giúp
Bằng dao phẫu, gội tắm, và xông hơi
Cũng như mọi thuốc thang, thương xá
Mời khách nằm đau ốm tả tơi.
Sẽ có thời nào, nữ thánh vĩnh hằng sẽ xóa
Niềm thương đau tăm tối, đã lưu truyền
Từ đời cha xuống đời con – sẽ đến phiên
Đời cháu phục hồi, chỉnh chu và hạnh phúc?
Tôi không biết! Vừa qua ta muốn
Ngợi ca trái tim nọ, thông tuệ và nồng nàn
Tìm cách dịu xoa, những gì cần xoa dịu,
Nhỏ vào vết thương dầu bóp của thời gian.
Người cao quí, ông xây đây mái ấm
Cho khổ đau, có thể chữa bởi kỳ công
Của bác sĩ (hoặc cũng của thần chết!)
Lo nước nôi, chăm bẵm, nệm bông.
Một người hành động, kíp làm được việc
Hiến tiền lương cho công đức, thương yêu
Con người, và bằng việc làm từ thiện
Nghỉ ngơi khi đời ông xế bóng chiều.
Ông đưa tay giàu – Nhưng món quyên giàu nữa
Thư thoảng lăn từ khóe mắt - giọt rơi,
- Giọt lệ quí ông khóc rỏ xuống đời
Vì căn bệnh lớn nan y của tình huynh đệ (2).
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ Nhà thương Israel mới xây ở Hamburg từ chùm Zeitgedichte (Những bài thơ thời cuộc) của tập Neue Gedichte - Những bài thơ mới.
Das neue israelitische Hospital zu Hamburg
Heinrich Heine (1797-1856)
Ein Hospital für arme, kranke Juden,
Für Menschenkinder, welche dreifach elend,
Behaftet mit den bösen drei Gebresten,
Mit Armut, Körperschmerz und Judentume!
Das schlimmste von den dreien ist das letzte,
Das tausendjährige Familienübel,
Die aus dem Niltal mitgeschleppte Plage,
Der altegyptisch ungesunde Glauben.
Unheilbar tiefes Leid! Dagegen helfen
Nicht Dampfbad, Dusche, nicht die Apparate
Der Chirurgie, noch all die Arzeneien,
Die dieses Haus den siechen Gästen bietet.
Wird einst die Zeit, die ewge Göttin, tilgen
Das dunkle Weh, das sich vererbt vom Vater
Herunter auf den Sohn, - wird einst der Enkel
Genesen und vernünftig sein und glücklich?
Ich weiß es nicht! Doch mittlerweile wollen
Wir preisen jenes Herz, das klug und liebreich
Zu lindern suchte, was der Lindrung fähig,
Zeitlichen Balsam träufelnd in die Wunden.
Der teure Mann! Er baute hier ein Obdach
Für Leiden, welche heilbar durch die Künste
Des Arztes (oder auch des Todes!), sorgte
Für Polster, Labetrank, Wartung und Pflege -
Ein Mann der Tat, tat er, was eben tunlich;
Für gute Werke gab er hin den Taglohn
Am Abend seines Lebens, menschenfreundlich,
Durch Wohltun sich erholend von der Arbeit.
Er gab mit reicher Hand - doch reichre Spende
Entrollte manchmal seinem Aug, die Träne,
Die kostbar schöne Träne, die er weinte
Ob der unheilbar großen Brüderkrankheit.
Chú thích của người dịch:
(1) Bệnh viện Israel đón nhận không chỉ người Do thái do người chú của Heinrich Heine, vị thương nhân giàu có và hảo tâm Samson Heine (1764-1828) đã bỏ tiền và công sức xây tặng thành phố Hamburg, hôm nay vẫn còn.
(2) Heinrich Heine sau này cải giáo. Người đồng hương Do thái không thông cảm với ông về chuyện này, và là tín đồ Kito mộ đạo, người Do thái Heine âm thầm đau khổ vì sự kỳ thị của người Đức. Căn bệnh lớn về tình anh em không thể chữa đề cập tình trạng không thể dung hòa giữa hai tôn giáo.
Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.
George Sand viết về Heine:
„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."
„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand).
Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:
"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy sử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“
„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“
Tranh của Victor Tardieu (1870-1937): Họa sĩ Pháp, sáng lập Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét