Chủ Nhật, 13 tháng 2, 2022

Với một cành

Rainer Maria Rilke (1875-1926)  



Với một cành, không khi nào giống thứ cành cây nọ
Đức Chúa như cây cũng vào hạ, đột nhiên
rì rào từ độ chín, và ngả ý phán truyền;
trong đất nước, nơi con người nghe ngóng
nơi mỗi kẻ giống như tôi lẻ bóng.

Bởi chỉ riêng kẻ cô đơn mới được mặc khải,
và nhiều kẻ cô đơn cũng tương tự nòi nhà
được cho nhiều hơn kẻ duy nhất mình hạn hẹp.
Bởi với mỗi người một Đức Chúa khác hiện ra
tới khi họ nhận biết, gần như bật khóc,
rằng qua hàm ý dặm ngàn xa lắc,
qua cảm nhận và phủ nhận của họ, không sai
họ chỉ khác biệt nhau trong trăm thứ thuộc Ngài
một Đức Chúa Trời đi như một làn sóng.

Đó là lời kinh cầu rốt ráo nhất,
những kẻ nhìn trông rồi tự nhủ hằng thường:
Cội rễ Đức Chúa Trời đã đơm hoa kết trái
tới đó đi, đập nát những quả chuông;
ta đi đến những ngày thêm yên lắng
ở đó khắc giờ chín muồi im đứng.
Cội rễ Đức Chúa Trời đã kết trái đơm bông.
Nghiêm nghị đi và hãy nhìn trông.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Mit einem Ast

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Mit einem Ast, der jenem niemals glich,
wird Gott, der Baum, auch einmal sommerlich
verkündend werden und aus Reife rauschen;
in einem Lande, wo die Menschen lauschen,
wo jeder ähnlich einsam ist wie ich.

Denn nur dem Einsamen wird offenbart,
und vielen Einsamen der gleichen Art
wird mehr gegeben als dem schmalen Einen.
Denn jedem wird ein andrer Gott erscheinen,
bis sie erkennen, nah am Weinen,
dass durch ihr meilenweites Meinen,
durch ihr Vernehmen und Verneinen,
verschieden nur in hundert Seinen
ein Gott wie eine Welle geht.

Das ist das endlichste Gebet,
das dann die Sehenden sich sagen:
Die Wurzel Gott hat Frucht getragen,
geht hin, die Glocken zu zerschlagen;
wir kommen zu den stillern Tagen,
in denen reif die Stunde steht.
Die Wurzel Gott hat Frucht getragen.
Seid ernst und seht.

Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Marc Chagall (1887-1985): Họa sĩ Pháp gốc Nga – Do thái.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...