© Wassyli Kandinsky
(1866-1944): Họa sĩ Nga
|
Rainer Maria Rilke (1875-1926):
Thường ra những kẻ khác sờ vào tất cả
đều thô nhám và không dự phần: những da, sắt, và đồ
Vậy là đôi khi một chiếc lông vũ mềm mại phỉnh phờ
rất đơn độc và sỗ sàng từng người chẳng khác
Thế nhưng - như bế một người đàn bà- anh vác
lá cờ trong trang trọng xiêm y.
Sát sạt sau anh tấm lụa nặng dời đi
qua bàn tay anh, thư thoảng trôi vuột mất.
Anh có thể một mình, nếu như nhắm mắt
nhìn thấy một nụ cười: cờ không được rời
Và nếu tới đây trong những áo giáp chói ngời
và giật và giằng cờ, và muốn nắm,
thì lúc đó anh được phép giật phăng khỏi cán
như đã xé đi từ trang thiếu nữ thanh tân
để giữ lá cờ nơi đáy giáp dưới chân.
Với những kẻ khác, đó là vinh quang và can đảm.
© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Der Fahnenträger
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Die Andern fühlen alles an sich rauh
und ohne Anteil: Eisen, Zeug und Leder.
Zwar manchmal schmeichelt eine weiche Feder,
doch sehr allein und lieb-los ist ein jeder;
er aber trägt - als trüg er eine Frau -
die Fahne in dem feierlichen Kleide.
Dicht hinter ihm geht ihre schwere Seide,
die manchmal über seine Hände fließt.
Er kann allein, wenn er die Augen schließt,
ein Lächeln sehn: er darf sie nicht verlassen. -
Und wenn es kommt in blitzenden Kürassen
und nach ihr greift und ringt und will sie fassen -:
dann darf er sie abreißen von dem Stocke
als riss er sie aus ihrem Mädchentum,
um sie zu halten unterm Waffenrocke.
Und für die Andern ist das Mut und Ruhm.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Phối tác trừu tượng - Con chim lửa ( Abstrakte Komposition - Feuervogel)
Tranh của Wassyli Kandinsky (1866-1944): Họa sĩ, nhà đồ họa và lý thuyết nghệ thuật người Nga.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét