Thứ Năm, 28 tháng 6, 2018

Hoa đoan nở, dạ oanh thánh thót

Heinrich Heine (1797-1856)
Tranh© Emil Nolde, họa sĩ Đức

Hoa đoan nở, dạ oanh thánh thót
Vầng dương cười thích thú vui tươi
Em hôn anh, tay em ôm lấy
Em ghì anh vào ngực bồi hồi.


Lá rơi xuống, quạ kêu ầm ĩ
Mặt trời chào, ánh mắt chán chường
Ta nói với nhau lạnh băng: “Vĩnh biệt!”
Em lịch sự nhún chân hết mực nhún nhường.


©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức


Die Linde blühte, die Nachtigall sang

 

Heinrich Heine (1797-1856)
 

Die Linde blühte, die Nachtigall sang,
Die Sonne lachte mit freundlicher Lust;
Da küßtest du mich, und dein Arm mich umschlang,
Da preßtest du mich an die schwellende Brust.

 

Die Blätter fielen, der Rabe schrie hohl,
Die Sonne grüßte verdrießlichen Blicks;
Da sagten wir frostig einander: „Lebwohl!“
Da knixtest du höflichst den höflichsten Knix.

 

Chú thích của người dịch:

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.


George Sand viết về Heine:


„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."


„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand)


Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:

"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy xử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta sẽ nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“ 

„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“


Tranh của Emil Nolde (7. 8. 1867 – 13. 4. 1956): Một trong những đại diện phái Biểu hiện Đức, và được coi là một trong những họa sĩ sơn dầu và màu nước xuất sắc của thế kỷ 20.

Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018

Biến hóa

Georg Trakl (1887 - 1914)   

Tranh © Franz Marc (1880-1916): Họa sĩ Đức

Dọc những khu vườn, tiết mùa thu, xém đỏ
Trong lặng im lộ cuộc sống miệt mài
Những chùm nho mang trĩu tay người
Khi nỗi đau dịu dàng hạ xuống trong ánh mắt.

Ban chiều: những bước chân qua vùng đất tối
Hiện rõ hơn trong nín lặng của cây dẻ gai đỏ màu
Một con thú xanh lam muốn trước cái chết nghiêng đầu
Và một chiếc áo choàng trống rũ tàn rùng rợn.

Vẻ thư thái nô đùa trước quán gió
Rơi xuống cỏ một gương mặt bừng say
Những trái cơm cháy, những cây sáo, mềm và ngất ngây
Hương cỏ mộc tê xả quanh vị đàn bà, con gái.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Verwandlung


Georg Trakl (1887 - 1914)

Entlang an Gärten, herbstlich, rotversengt:
Hier zeigt im Stillen sich ein tüchtig Leben.
Des Menschen Hände tragen braune Reben,
Indes der sanfte Schmerz im Blick sich senkt.

Am Abend: Schritte gehn durch schwarzes Land
Erscheinender in roter Buchen Schweigen.
Ein blaues Tier will sich vorm Tod verneigen
Und grauenvoll verfällt ein leer Gewand.

Geruhiges vor einer Schenke spielt,
Ein Antlitz ist berauscht ins Gras gesunken.
Hollunderfrüchte, Flöten weich und trunken,
Resedenduft, der Weibliches umspült.

Một bản tiếng Anh:

Transformation

Georg Trakl (1887 - 1914)

Along the gardens, scorched with the crimson colors of the fall:
We see the life of a diligent man.
Who carries the brown grapes in his hands,
While in his look the sullen pain descends.

In the evening: Steps sound on the dark ground
Appearing in the silence of a red beech.
A blue beast wants to bow before death
And an empty garb decays in horror.

In front of a tavern music softly plays,
A drunken face lies buried in the grass.
elderberries, soft flutes and the feminine,
around which the scent of sweet reseda sways.

Chú thích của người dịch:

Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Tượng trưng, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Tòan bộ thi phẩm của ông mang dấu ấn của hòai cảm, u sầu và hướng tìm Thiên Chúa. Có thể kể Cái chết, Suy đồi và sự Suy tàn của Tây Phương như những hàm ý chính ở thơ trữ tình sâu xa của Georg Trakl đầy những biểu tượng và ẩn dụ.
„ Hồ như không thể định vị tác phẩm thơ của ông một cách rõ rệt theo lịch sử văn học nội trong văn chương của thế kỷ 20“ (Wikipedia)

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905 Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng Latinh, Hy Lạp và Tóan), không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocain quá liều. 


Tranh của Franz Marc (1880-1916): Họa sĩ quan trọng của chủ nghĩa Biểu hiện Đức.

Thứ Ba, 19 tháng 6, 2018

Thổi sáo

Hermann Hesse (1877-1962)    
 
Tranh© Pablo Picasso, họa sĩ Tây Ban Nha.

Một ngôi nhà trong đêm thanh vắng
Qua cành cây mờ tỏ ánh đèn,
Một cửa sổ, đứng trong phòng khuất
Một người chơi sáo thổi véo von.

Ấy khúc hát từ xưa quen thuộc
Trôi vào dòng đêm mới thân thương,
Như thể quê hương từng đất nước,

Như thể đi xong mỗi con đường.

Hẳn ý nghĩa bí huyền của thế giới
Thổ lộ trong hơi thở người chơi,
Và tự nguyện con tim dâng hiến
Và trở nên hiện hữu mọi thời.

©®Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Flötenspiel

Hermann Hesse (1877-1962)


Ein Haus bei Nacht durch Strauch und Baum
Ein Fenster leise schimmern ließ,
Und dort im unsichtbaren Raum
Ein Flötenspieler stand und blies.

Es war ein Lied so altbekannt,
Es floß so gültig in die Nacht,
Als wäre Heimat jedes Land,
Als wäre jeder Weg vollbracht.

Es war der Welt geheimer Sinn
In seinem Atem offenbart,
Und willig gab das Herz sich hin
Und alle Zeit ward Gegenwart.

Chú thích của người dịch:

Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói đồng hoang) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.

Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.

Tác phẩm:

Thơ: 


– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ 


Văn xuôi: 


- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch.
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.
- Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch.
- Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông.
- Sói đồng hoang (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết.
- Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.

Tranh của Pablo Picasso (1881-1973): Họa sĩ, nhà đồ họa và điêu khắc Tây Ban Nha.

Thứ Bảy, 16 tháng 6, 2018

Trên dòng Ranh, sông xinh đẹp

Heinrich Heine (1797-1856)  

Tranh ©Leonardo da Vinci (1452-1519)

Trên dòng Ranh, sông xinh đẹp
Nơi gương sóng nước soi lên
Thành Köln kỳ vĩ, thiêng liêng
Cùng tòa thánh đường vĩ đại.

Trong tòa đây bày bức họa
Vẽ trên da, ánh vàng soi
Đã từng chiếu tia rạng rỡ
Vào hoang dã của đời tôi.

Ở bên Đức Bà yêu quí
Thiên thần, hoa lá bay quanh
Mắt, má và môi in hệt
Như em yêu dấu của anh.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Im Rhein, im schönen Strome

Heinrich Heine (1797-1856)

Im Rhein, im schönen Strome,
Da spiegelt sich in den Welln,
Mit seinem großen Dome,
Das große, heilge Köln.

Im Dom da steht ein Bildnis,
Auf goldenem Leder gemalt;
In meines Lebens Wildnis
Hats freundlich hineingestrahlt.

Es schweben Blumen und Englein
Um unsre liebe Frau;
Die Augen, die Lippen, die Wänglein,
Die gleichen der Liebsten genau.

Bản tiếng Anh:

In the Rhine, in the beautiful river

Heinrich Heine (1797-1856)

In the Rhine, in the beautiful river,
There is reflected in the waves,
With its great cathedral,
Great and holy Cologne.

In the cathedral hangs a picture,
Painted on gilded leather;
Ah! into my life’s wilderness
It has cast its friendly rays.

Flowers and cherubs hover
Around Our beloved Lady;
Her eyes, her lips, her cheeks
Are the image of my love’s.

Translations by Richard Stokes

Chú thích của người dịch:

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

Tranh của Leonardo da Vinci (1452-1519).

Thứ Hai, 11 tháng 6, 2018

Thời đại

Georg Trakl (1887 - 1914)

Tranh © Hans am Ende (1864-1918): Họa sĩ Đức

Mặt một con thú trong cỏ xanh nâu, sợ sệt
Long lên nhìn tôi, lùm cây cháy lập lòe
Ngoài xa kia, hát cùng giọng con trẻ
Một giếng cổ. Ghé tai tôi lắng nghe.

Những con quạ hoang nhằm tôi chế nhạo
Những cây bạch dương che lấy mặt, xung quanh
Trước đám lửa cỏ dại tôi đứng lặng thinh
Và im ắng, những ảnh hình vẽ vào trong đó.

Trên nền vàng kim, những tình sử thời thượng cổ
Sự lặng câm của chúng trải mây trên đồi
Từ mặt nước ao rợn vẻ ma trơi
Những trái quả vẫy chào, ánh lên và trĩu nặng.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

ZEITALTER

Georg Trakl (1887 - 1914)

Ein Tiergesicht im braunen Grün
Glüht scheu mich an, die Büsche glimmen.
Sehr ferne singt mit Kinderstimmen
Ein alter Brunnen. Ich lausche hin.

Die wilden Dohlen spotten mein
Und rings die Birken sich verschleiern.
Ich stehe still vor Unkrautfeuern
Und leise malen sich Bilder darein,

Auf Goldgrund uralte Liebesmär.
Ihr Schweigen breiten die Wolken am Hügel.
Aus geisterhaftem Weiherspiegel
Winken Früchte, leuchtend und schwer.

Bản tiếng Anh:

AGE

Georg Trakl (1887 - 1914)

An animal face in the brown green
Glows shyly to me, the bushes smolder.
Very far away an old fountain sings
With children's voices. I listen there.

The wild jackdaws mock me
And all around the birches veil themselves.
I stand silent before a weed fire
And softly pictures paint themselves on it,

An ancient fairytale of love on golden ground.
The clouds spread their silence on the hill.
From the ghostly pond-mirror
Fruits beckon, shining and heavy.

Chú thích của người dịch:

Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Tượng trưng, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Tòan bộ thi phẩm của ông mang dấu ấn của hòai cảm, u sầu và hướng tìm Thiên Chúa. Có thể kể Cái chết, Suy đồi và sự Suy tàn của Tây Phương như những hàm ý chính ở thơ trữ tình sâu xa của Georg Trakl đầy những biểu tượng và ẩn dụ.
„ Hồ như không thể định vị tác phẩm thơ của ông một cách rõ rệt theo lịch sử văn học nội trong văn chương của thế kỷ 20“ (Wikipedia)

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905 Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng Latinh, Hy Lạp và Tóan), không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocain quá liều.

Tranh © Hans am Ende (1864-1918): Họa sĩ Đức.


Thứ Ba, 5 tháng 6, 2018

Cô gái tương tư

Rainer Maria Rilke (1875-1926)  

Tranh © Rembrandt H. van Rijn

Trước em hiện lên một kỵ sĩ trẻ
gần như một lời niệm chú cổ xưa.

Chàng đến. Vậy đó trên triền rừng thư thoảng
cơn giông to đến và trùm lên em.
Chàng đi. Như reo ca của những quả chuông
thường giữa lễ cầu kinh
bỏ mình em ở lại...
Em rồi muốn hét vào trong tĩnh tại
mà thế thôi chỉ thầm khóc vào trong
thấm sâu vào khăn chiếc lạnh băng.

Trước em hiện lên một kỵ sĩ trẻ
với giáo gươm chinh chiến nơi xa.

Nụ cười chàng sao dịu dàng tinh tế
Như sáng bong trên đồ cổ ngà voi
như nỗi nhớ nhà, như Nô el tuyết rơi
trong làng tối, như đá màu lam thổ
ở xung quanh bao hàng sắp ngọc thêu,
như ánh trăng
trên cuốn sách dấu yêu.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Mädchenmelancholie


Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Mir fällt ein junger Ritter ein
fast wie ein alter Spruch.

Der kam. So kommt manchmal im Hain
der große Sturm und hüllt dich ein.
Der ging. So lässt das Benedein
der großen Glocken dich allein
oft mitten im Gebet...
Dann willst du in die Stille schrein,
und weinst doch nur ganz leis hinein
tief in dein kühles Tuch.

Mir fällt ein junger Ritter ein,
der weit in Waffen geht.

Sein Lächeln war so weich und fein:
wie Glanz auf altem Elfenbein,
wie Heimweh, wie ein Weihnachtsschnein
im dunkeln Dorf, wie Türkisstein
um den sich lauter Perlen reihn,
wie Mondenschein
auf einem lieben Buch.

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).


Tranh của Rembrandt Harmenszoon van Rijn (15 tháng 7 năm 1606 - 4 tháng 10 năm 1669): Họa sĩ Hà Lan.

Thứ Sáu, 1 tháng 6, 2018

Một tối rước đèn

Phạm Kỳ Đăng 

Tranh © Edvard Munch (1863-1944): Họa sĩ Na Uy

Ngõ phố của em, giòn giã
Hồi trống hằng mong
Lồng kính đèn xoay vồn vã
Mê ly trong cõi tuổi hồng.

Bé gái xiêm nơ, xúng xính
Vai bồng, so búp tay nâng
Bước chân lẫm chẫm
Ganh hàng chạy dưới đồng trăng.

Ngón sữa đòn roi, bầm dập
Các em chụm khít lòng tay
Xếp nữa lên, tay bụ bẫm
Vết thương liền kết một ngày.

Hãy đi theo dòng bất tận
Nhón nhiều, mạnh bước rời xa
Đồng trăng sáng về cố quận
Một mai em trở lại nhà:

Vạn hoa xếp hình non nước
Khêu từ ký ức thắm tươi:
- Những giấc trẻ thơ lộng lẫy
Bùng khơi như ánh than vùi.

©® PKĐ 2018

Tranh của Edvard Munch (1863-1944): Họa sĩ Na Uy, tác phẩm mang nhiều dấu ấn của phái Tượng trưng, ảnh hưởng lớn tới hội họa châu Âu hiện đại.

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...