Tranh ©
Paula Modersohn-Becker (1876-1907)
|
Trên công viên đêm trĩu hương nồng,
và các vì sao ngước nhìn lặng lẽ,
Như thuyền trắng của vầng trăng đã
muốn hạ neo trong tán cây đoan.
Xa kia tôi nghe tia nước réo
Một cổ tích tôi từ lâu lãng quên -
và rồi sau quả táo rụng lặng yên
vào vạt cỏ mọc cao, bất động.
Gió đêm mơn man từ đồi bên cạnh
và mang trên cánh bướm xanh dương
qua hàng sồi già cỗi, mùi hương
nồng nã của rượu vang mới ủ.
XV
Trong lòng của đêm băng sáng bạc
nơi đó gần xa tất cả ngủ chập chờn,
duy một niềm đau vĩnh hằng, man dại
thức trong cô đơn của một linh hồn.
Em hỏi tại sao linh hồn nín lặng
rót vào đêm, sao chẳng ra ngoài?
Linh hồn biết, nếu hồn thoát rời
đêm dập tắt mọi vì tinh tú.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XIV
Die Nacht liegt duftschwer auf dem Parke,
und ihre Sterne schauen still,
wie schon des Mondes weisse Barke
im Lindenwipfel landen will.
Fern hör ich die Fontäne lallen
ein Märchen, das ich längst vergass, –
und dann ein leises Apfelfallen
ins hohe, regungslose Gras.
Der Nachtwind schwebt vom nahen Hügel
und trägt durch alte Eichenreihn
auf seinem blauen Falterflügel den
schweren Duft vom jungen Wein.
XV
Im Schoss der silberhellen Schneenacht
dort schlummert alles weit und breit,
und nur ein ewig wildes Weh wacht
in einer Seele Einsamkeit.
Du fragst, warum die Seele schwiege,
warum sies in die Nacht hinaus
nicht giesst? – Sie weiss, wenns ihr entstiege,
es löschte alle Sterne aus.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Paula Modersohn-Becker (1876-1907): Nữ họa sĩ Đức.
giường đồ gỗ giá kho đang giảm giá sập sàn
Trả lờiXóaxem chi tiết tại dogogiakho.com