Thứ Ba, 28 tháng 5, 2019

MÙA XUÂN MỚI

Heinrich Heine (1797-1856)

Tranh © Heinrich Vogeler (1872-1942)
IV.

Tôi yêu một bông hoa, tuy chẳng biết bông nào cả,
Đau đớn cho tôi.
Tôi ngó vào mọi đài hoa nở,
Và tìm một trái tim thôi.

Những bông hoa thơm hương trong ánh chiều chạng vạng
Dạ oanh vút ca.
Tôi tìm một trái tim, đẹp như tim tôi vậy
Rung lên đẹp thiết tha.

Dạ oanh cất tiếng và tôi hiểu được
Khúc hát ngọt ngào.
Và cả hai ta cùng âu lo đau đớn,
Âu lo và đớn đau sao.

V.

Tháng Năm vừa đã tới,
Cây cối nở bừng hoa.
Và qua trời xanh thắm,
Đám mây hồng kéo qua.

Từ tán rừng cao vót
Hót xuống tiếng dạ oanh.
Lũ cừu non trắng nhảy
Trên cỏ lá ba xanh.

Tôi không thể nhảy và hát
Tôi ốm nằm trên cỏ khi
Nghe vọng từ xa ríu rít
Tôi mơ, mình chẳng biết gì.

VI.

Êm ả kéo qua lòng tôi đó
Thương mến tiếng ngân nga.
Nào ngân đi, khúc mùa xuân nhỏ
Reo ngòai kia ngân tới muôn xa.

Ngân thật xa vang tới ngôi nhà,
Nơi hoa lá nở bông.
Hãy nói, tôi nhắn lời chào gửi,
Nếu có trông thấy một đóa hồng.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức tổ khúc MÙA XUÂN MỚI từ tập Neue Gedichte - Những bài thơ mới, gồm 44 bài thơ đánh theo số La mã.


Neuer Frühling


Heinrich Heine (1797-1856)

IV.

Ich lieb eine Blume, doch weiß ich nicht welche;
Das macht mir Schmerz.
Ich schau in alle Blumenkelche,
Und such ein Herz.

Es duften die Blumen im Abendscheine,
Die Nachtigall schlägt.
Ich such ein Herz, so schön wie das meine,
So schön bewegt.

Die Nachtigall schlägt, und ich verstehe
Den süßen Gesang;
Uns beiden ist so bang und wehe,
So weh und bang.

V.

Gekommen ist der Maie,
Die Blumen und Bäume blühn,
Und durch die Himmelsbläue
Die rosigen Wolken ziehn.

Die Nachtigallen singen
Herab aus der laubigen Höh',
Die weißen Lämmer springen
Im weichen grünen Klee.

Ich kann nicht singen und springen,
Ich liege krank im Gras;
Ich höre fernes Klingen,
Mir träumt, ich weiß nicht was.

VI.

Leise zieht durch mein Gemüt
Liebliches Geläute.
Klinge, kleines Frühlingslied.
Kling hinaus ins Weite.

Kling hinaus, bis an das Haus,
Wo die Blumen sprießen.
Wenn du eine Rose schaust,
Sag, ich laß sie grüßen.

Chú thích của người dịch:

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

George Sand viết về Heine:


„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."

„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand)

Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:


"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy xử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“

„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“


Mùa xuân/Frühling - Tranh của Heinrich Vogeler (1872-1942): Họa sĩ, nhà đồ họa Đức.

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2019

MÙA XUÂN MỚI

Heinrich Heine (1797-1856)   

Tranh© Jean-Baptiste Camille Corot (1796-1875)

II.

Trong rừng chồi đâm tơ xanh lục
E ấp gần như gái đồng trinh
Mà mặt trời mỉm cười xuống thế
Chào mùa xuân trẻ tới, hoan nghênh!

Dạ oanh! Ta cũng từng nghe hót
Sáo véo von sầu muộn bao nhiêu,
Âm sắc réo rắt dài thổn thức
Khúc ca mi rộn rã tình yêu!

III.

Của đêm xuân những con mắt đẹp
An ủi người ngó xuống dưới đây
Tình yêu làm anh sao nhỏ mọn,
Vẫn tình yêu nâng đỡ anh ngay.

Nàng ngồi trên cây đoan xanh lá
Philomela xinh xắn hát ca
Như khúc hát giục hồn tôi vậy,
Tâm hồn tôi trải cánh vươn xa.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức tổ khúc MÙA XUÂN MỚI từ tập Neue Gedichte - Những bài thơ mới, gồm 44 bài thơ đánh theo số La mã.

II.

In dem Walde sprießt und grünt es
Fast jungfräulich lustbeklommen;
Doch die Sonne lacht herunter:
Junger Frühling, sei willkommen!

Nachtigall! auch dich schon hör ich,
Wie du flötest seligtrübe,
Schluchzend langgezogne Töne,
Und dein Lied ist lauter Liebe!

III.

Die schönen Augen der Frühlingsnacht,
Sie schauen so tröstend nieder:
Hat dich die Liebe so kleinlich gemacht,
Die Liebe, sie hebt dich wieder.

Auf grüner Linde sitzt und singt
Die süße Philomele;
Wie mir das Lied zur Seele dringt,
So dehnt sich wieder die Seele.

Chú thích của người dịch:

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

George Sand viết về Heine:

„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."

„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand)

Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:

"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy xử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“

„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“

Tranh của Jean-Baptiste Camille Corot (1796-1875): Họa sĩ Pháp.

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2019

MÙA XUÂN MỚI

Heinrich Heine (1797-1856)   

 © Rembrandt H. van Rijn (1606-1669)


KHÚC MỞ ĐẦU


Bạn thấy trong những phòng triển lãm
Thường thường treo tranh người đàn ông
Hắn muốn lao thân vào cuộc chiến,
Vũ trang bằng giáo sắt, khiên đồng.

Tuy nhiên những hài binh cợt nhả
Cướp giáo gươm và cả khiên đi
Với dây hoa buộc trói lấy y,
Mặc kệ y càu nhàu kháng cự.

Vậy, trong những rào ngăn hoa lệ
Tôi kết bằng khoái lạc, khổ đau;
Trong khi kẻ khác phải đấu nhau
Trong cuộc chiến lớn của thời đại.

I.

Ngồi dưới gốc cây tán trắng
Anh nghe vi vút gió xa.
Trông kìa, mây lặng im qua
Cuộn vào màn sương, trên đó

Trông dưới kia rừng, nội cỏ
Chết dần, trơ trụi xén bằng; -
Mùa đông quanh anh, trong ngực
Và tim anh đã đóng băng.

Đột nhiên rơi những bông trắng
Xuống người, anh nghĩ: chán thay
Lại là những chùm lả tả
Tuyết bông, rót xuống từ cây.

Nhưng không phải là bụm tuyết
Anh nhận ra, sững sờ vui;
Chùm hoa xuân thơm là đó
Trùm lên anh, giỡn nô thôi.

Phép nhiệm màu bàng hoàng - ngọt!
Mùa đông hóa tháng Năm trêu
Tuyết hóa thân thành bông nở
Tim anh, lại mới đầu yêu.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức tổ khúc MÙA XUÂN MỚI từ tập Neue Gedichte - Những bài thơ mới, gồm 44 bài thơ đánh theo số La mã.

Heinrich Heine (1797-1856)

NEUER FRÜHLING

PROLOG

In Gemäldegalerien
Siehst du oft das Bild des Manns,
Der zum Kampfe wollte ziehen,
Wohlbewehrt mit Schild und Lanz.

Doch ihn necken Amoretten,
Rauben Lanze ihm und Schwert,
Binden ihn mit Blumenketten,
Wie er auch sich mürrisch wehrt.

So, in holden Hindernissen,
Wind ich mich in Lust und Leid,
Während Andre kämpfen müssen
In dem großen Kampf der Zeit.

I.

Unterm weißen Baume sitzend,
Hörst du fern die Winde schrillen,
Siehst, wie oben stumme Wolken
Sich in Nebeldecken hüllen;

Siehst, wie unten ausgestorben
Wald und Flur, wie kahl geschoren; –
Um dich Winter, in dir Winter,
Und dein Herz ist eingefroren.

Plötzlich fallen auf dich nieder
Weiße Flocken, und verdrossen
Meinst du schon, mit Schneegestöber
Hab der Baum dich übergossen.

Doch es ist kein Schneegestöber,
Merkst es bald mit freud'gem Schrecken;
Duft'ge Frühlingsblüten sind es,
Die dich necken und bedecken.

Welch ein schauersüßer Zauber!
Winter wandelt sich in Maie,
Schnee verwandelt sich in Blüten,
Und dein Herz, es liebt aufs neue.

Chú thích của người dịch:

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

George Sand viết về Heine:

„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."

„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand).

Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:

"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy sử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“

„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“

Tranh của Rembrandt Harmenszoon van Rijn (15 tháng 7 năm 1606 - 4 tháng 10 năm 1669): Họa sĩ Hà Lan.

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2019

Rainer Maria Rilke (1875-1926)  

Tranh của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Đức

XXVI

Mệt mỏi qua làn khói sương thung lũng
Đêm lảo đảo trên đôi giày vàng,-
Con bướm đu trên cọng cỏ mơ màng,
không biết làm chi trước niềm khoan khoái.

Tất cả uống xuýt xoa sự tĩnh tại,
Như nơi đây linh hồn trải, nở căng,
tới khi thành vỏ bọc sáng choang
hồn bao quanh tối tăm của thế giới.

XXVII

Một hồi tưởng, linh thiêng tôi đợi
qua miền sâu tâm trí chiếu cho tôi,
như màu trắng cẩm thạch tượng thánh lóng soi
qua ánh chờn vờn của cánh rừng tế lễ.

Hồi tưởng những vui vầy xưa đẹp đẽ
Nhớ về tháng Năm chết đã xa,-
Thẻ hương chắp trong tay trắng, những
ngày của tôi thầm lặng diễu qua.

XXVIII

Tin tôi đi, tôi rã rời vì đau ốm,
Không ham xuân huyên náo nữa đâu,
Chỉ muốn một ngày thu chớm ban đầu
sáng choang nắng trời và đỏ trên tán lá.

Không còn muốn đón trở về lồng ngực
niềm ham vui ánh ỏi reo trong,-
chỉ muốn sự lặng yên của hấp hối trong phòng
ở nơi đây - cho tôi hạnh phúc chết.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.

Träumen

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

XXVI

Matt durch der Tale Gequalme wankt
Abend auf goldenen Schuhn, –
Falter, der träumend am Halme hangt,
weiss nichts vor Wonne zu tun.

Alles schlürft heil an der Stille sich. –
Wie da die Seele sich schwellt,
dass sie als schimmernde Hülle sich
legt um das Dunkel der Welt.

XXVII

EIN Erinnern, das ich heilig heisse,
leuchtet mir durchs innerste Gemüt,
so wie Götterbildermarmorweisse
durch geweihter Haine Dämmer glüht.

Das Erinnern einstger Seligkeiten,
das Erinnern an den toten Mai, –
Weihrauch in den weissen Händen, schreiten
meine stillen Tage dran vorbei ...

XXVIII

Glaubt mir, dass ich, matt vom Kranken,
keinen lauten Lenz mehr mag, –
will nur einen sonnenblanken,
wipfelroten Frühherbsttag.

Will die Lust, die jubelschrille,
nicht mehr in die Brust zurück, –
will nur Sterbestubenstille
drinnen – für mein totes Glück.

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2019

Rainer Maria Rilke (1875-1926)   

Tranh của © Emil Nolde (1867-1954)
XXIV

Ôi còn có tinh tú nào không nhợt nhạt,
nếu ngày qua viền khắp phương Đông;
Về những vì sao thế đó vô song,
linh hồn tôi thường mơ tưởng thấy.

Về những vì sao, êm đềm nhấp nháy,
nơi đó mong an lạc mắt người,
đã mệt mỏi vì uống cả mặt trời,
ở một ngày hè kim vàng chói.

Và cao tới cỗ vận hành thế giới
những vì sao này đó chen lên -
Hẳn những vì tinh tú thiêng liêng
với mọi nhà thơ và tình yêu thầm kín.

XXV

Tôi đớn đau, đớn đau như thể
Toàn thế gian phải xám xịt tàn thôi,
Như thể người yêu dấu hôn tôi,
và nói: Chào! Không bao giờ gặp lại.

Như thể tôi chết và trong trí não
nỗi giày vò hoang dại điên cuồng,
Bởi một cô điếm lấy cắp từ đồi chôn
của tôi bông hồng cuối cùng, nhợt nhạt...

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.

Träumen

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

XXIV

O gäbs doch Sterne, die nicht bleichen,
wenn schon der Tag den Ost besäumt;
von solchen Sternen ohnegleichen
hat meine Seele oft geträumt.

Von Sternen, die so milde blinken,
dass dort das Auge landen mag,
das müde ward vom Sonnetrinken
an einem goldnen Sommertag.

Und schlichen hoch ins Weltgetriebe
sich wirklich solche Sterne ein, –
sie müssten der verborgnen Liebe
und allen Dichtern heilig sein.

XXV

Mir ist so weh, so weh, als müsste
die ganze Welt in Grau vergehn,
als ob mich die Geliebte küsste
und spräch: Auf Nimmerwiedersehn.

Als ob ich tot wär und im Hirne
mir dennoch wühlte wilde Qual,
weil mir vom Hügel eine Dirne
die letzte, blasse Rose stahl ...

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.

Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2019

Rainer Maria Rilke (1875-1926)  

Tranh © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Đức
XXII

Như một bông hoa giấy khổng lồ, thế giới khoe sắc đầy hương,
bên những cánh đài một con bướm cánh ẩm ướt xanh dương
trải lên đêm tháng Năm
phủ cánh.

Không chút gì lay động; chỉ có chiếc râu bạc lấp lánh
Sau đó đôi cánh nâng lên, đôi cánh sớm bạc lòng,
đưa tới Bình Minh, nơi bướm từ đóa cúc lửa hồng
uống vào sự hấp hối...

XXIII

Làm sao đào cho sâu từng cảm xúc,
vận trong ngực một thôi thúc ngọt ngào,
nếu tháng Năm, rỏ giọt những vì sao,
hạ cánh xuống những quảng trường im ắng.

Anh rón rén tới đó trên gót giầy nhẹ bẫng,
và bay lên tới vầng xanh chói lòa,
và vĩ đại như bông phi yến tím
trước anh linh hồn tối mở ra...

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.

Träumen

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

XXII

WIE eine Riesenwunderblume prangt
voll Duft die Welt, an deren Blütenspelze,
ein Schmetterling mit blauem Schwingenschmelze,
die Mainacht hangt.

Nichts regt sich; nur der Silberfühler blinkt ...
Dann trägt sein Flügel ihn, sein frühverblasster,
nach Morgen, wo aus feuerroter Aster
er Sterben trinkt ...

XXIII

WIE, jegliches Gefühl vertiefend,
ein süsser Drang die Brust bewegt,
wenn sich die Mainacht, sternetriefend,
auf mäuschenstille Plätze legt –

Da schleichst du hin auf sachter Sohle
und schwärmst zum blanken Blau hinauf,
und gross wie eine Nachtviole
geht dir die dunkle Seele auf ...

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2019

Rainer Maria Rilke (1875-1926)  

Tranh của © Emil Nolde (1867-1954)
XII

Đã thấp thoáng trên tấm mền nhàu nhĩ
cái gáy thánh thần trong trắng, yêu kiều
của Thiên nhiên sớm tỉnh dậy,
và chỉ trong những thung lũng hiểm trở khuất xa,
sau những bụi trơ trụi, tím ngà,
dấu giày trắng của mùa đông
khoe khoang hiển lộ.

Tôi đi tới giữa những cây dương liễu
bên lề lạch nước đọng vết bánh xe
con đường, và mùa đông dịu ngọt.
Mặt trời nguyên vẹn trong vẻ rực rỡ tháng Ba,
trong con tim tối tăm của nỗi nhớ,
và trước niềm hy vọng của tôi, bức tranh thánh ban ân
thắp bạch lạp tạ ơn người tuẫn nạn.

XIII.

Bầu trời xám bạc, nơi mỗi
mầu hoảng hốt nhợt nhạt.
Ngoài xa - một vệt duy nhất đỏ bùng
như vết sẹo roi quất cháy hồng
Những tia hồi quang nhiễu loạn tắt đi và xuất hiện.
Và trong không khí
nằm lại như hương hoa hồng đang chết
và như nỗi khóc thầm.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.

Träumen

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

XII

Schon blinzt aus argzerfetztem Laken
der holde, keusche Götternacken
der früherwachenden Natur,
und nur in tiefentlegnen Talen
zeigt hinter violetten, kahlen
Gebüschen sich mit falschem Prahlen
des Winters weisse Sohlenspur.

Hin geh ich zwischen Weidenbäumen
an nassen Räderrinnensäumen
den Fahrweg, und der Wind ist mild.
Die Sonne prangt im Glast des Märzen
und zündet an im dunkeln Herzen
der Sehnsucht weiße Opferkerzen
vor meiner Hoffnung Gnadenbild.

XIII

Fahlgrauer Himmel, von dem jede Farbe
bange verblich.
Weit — ein einziger lohroter Strich
wie eine brennende Geisselnarbe.
Irre Reflexe vergehn und erscheinen.
Und in der Luft
liegts wie ersterbender Rosenduft
und wie verhaltenes Weinen ...

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2019

Rainer Maria Rilke (1875-1926)  

Tranh của © Emil Nolde (1867-1954)
X.

Nếu nhân dân, nhọc nhằn uể oải,
vụng về lê bước quen cũ dặm đường,
tôi muốn trên những chặng lữ màu trắng
băng mình qua rặng lũy thơm hương,
nghiêm nghị và cô đơn như một đức thánh,

Du hành tới những miền xa lấp loáng,
ý thức được sự đền công sáng láng:
- Trên vầng trán mát lạnh những vòng hoa,
Những thần thoại còn trong trắng trẻ thơ
chất đầy ngực lặng im mùa chay tịnh.

XI.

Tôi biết chứ, xảy ra điều gì vậy,
Những làn hương tỏa ngát thinh không,
Và trong những cọng cỏ màu nâu như đồng,
một khúc ca của dế đã đi mất hút.

Cũng sâu trong linh hồn tôi vang tiếng
một thanh âm, một thanh âm yêu dấu - sầu bi:
- Phải đúng như đứa bé trong cơn sốt li bì,
nghe người mẹ đã chết rồi ca hát.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã

Träumen

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

X.

Wenn das Volk, das drohnenträge,
trabt den altvertrauten Trott,
möcht ich weiße Wandelwege
wallen durch das Duftgehege
ernst und einsam wie ein Gott.

Wandeln nach den glanzdurchsprühten
Fernen, lichten Lohns bewusst; –
um die Stirne kühle Blüten
und von kinderkeuschen Mythen
voll die sabbatstille Brust.

XI.

Weiss ich denn wie mir geschieht?
In den Lüften Düftequalmen
und in bronzebraunen Halmen
ein verlornes Grillenlied.

Auch in meiner Seele klingt
tief ein Klang, ein traurig-lieber, –
so hört wohl ein Kind im Fieber,
wie die tote Mutter singt.

Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...