Tranh của © Emil Nolde (1867-1954)
|
Đã thấp thoáng trên tấm mền nhàu nhĩ
cái gáy thánh thần trong trắng, yêu kiều
của Thiên nhiên sớm tỉnh dậy,
và chỉ trong những thung lũng hiểm trở khuất xa,
sau những bụi trơ trụi, tím ngà,
dấu giày trắng của mùa đông
khoe khoang hiển lộ.
Tôi đi tới giữa những cây dương liễu
bên lề lạch nước đọng vết bánh xe
con đường, và mùa đông dịu ngọt.
Mặt trời nguyên vẹn trong vẻ rực rỡ tháng Ba,
trong con tim tối tăm của nỗi nhớ,
và trước niềm hy vọng của tôi, bức tranh thánh ban ân
thắp bạch lạp tạ ơn người tuẫn nạn.
XIII.
Bầu trời xám bạc, nơi mỗi
mầu hoảng hốt nhợt nhạt.
Ngoài xa - một vệt duy nhất đỏ bùng
như vết sẹo roi quất cháy hồng
Những tia hồi quang nhiễu loạn tắt đi và xuất hiện.
Và trong không khí
nằm lại như hương hoa hồng đang chết
và như nỗi khóc thầm.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XII
Schon blinzt aus argzerfetztem Laken
der holde, keusche Götternacken
der früherwachenden Natur,
und nur in tiefentlegnen Talen
zeigt hinter violetten, kahlen
Gebüschen sich mit falschem Prahlen
des Winters weisse Sohlenspur.
Hin geh ich zwischen Weidenbäumen
an nassen Räderrinnensäumen
den Fahrweg, und der Wind ist mild.
Die Sonne prangt im Glast des Märzen
und zündet an im dunkeln Herzen
der Sehnsucht weiße Opferkerzen
vor meiner Hoffnung Gnadenbild.
XIII
Fahlgrauer Himmel, von dem jede Farbe
bange verblich.
Weit — ein einziger lohroter Strich
wie eine brennende Geisselnarbe.
Irre Reflexe vergehn und erscheinen.
Und in der Luft
liegts wie ersterbender Rosenduft
und wie verhaltenes Weinen ...
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét