Tranh của © Emil Nolde (1867-1954)
|
Ôi còn có tinh tú nào không nhợt nhạt,
nếu ngày qua viền khắp phương Đông;
Về những vì sao thế đó vô song,
linh hồn tôi thường mơ tưởng thấy.
Về những vì sao, êm đềm nhấp nháy,
nơi đó mong an lạc mắt người,
đã mệt mỏi vì uống cả mặt trời,
ở một ngày hè kim vàng chói.
Và cao tới cỗ vận hành thế giới
những vì sao này đó chen lên -
Hẳn những vì tinh tú thiêng liêng
với mọi nhà thơ và tình yêu thầm kín.
XXV
Tôi đớn đau, đớn đau như thể
Toàn thế gian phải xám xịt tàn thôi,
Như thể người yêu dấu hôn tôi,
và nói: Chào! Không bao giờ gặp lại.
Như thể tôi chết và trong trí não
nỗi giày vò hoang dại điên cuồng,
Bởi một cô điếm lấy cắp từ đồi chôn
của tôi bông hồng cuối cùng, nhợt nhạt...
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XXIV
O gäbs doch Sterne, die nicht bleichen,
wenn schon der Tag den Ost besäumt;
von solchen Sternen ohnegleichen
hat meine Seele oft geträumt.
Von Sternen, die so milde blinken,
dass dort das Auge landen mag,
das müde ward vom Sonnetrinken
an einem goldnen Sommertag.
Und schlichen hoch ins Weltgetriebe
sich wirklich solche Sterne ein, –
sie müssten der verborgnen Liebe
und allen Dichtern heilig sein.
XXV
Mir ist so weh, so weh, als müsste
die ganze Welt in Grau vergehn,
als ob mich die Geliebte küsste
und spräch: Auf Nimmerwiedersehn.
Als ob ich tot wär und im Hirne
mir dennoch wühlte wilde Qual,
weil mir vom Hügel eine Dirne
die letzte, blasse Rose stahl ...
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét