Tranh của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Đức
|
XXVI
Mệt mỏi qua làn khói sương thung lũng
Đêm lảo đảo trên đôi giày vàng,-
Con bướm đu trên cọng cỏ mơ màng,
không biết làm chi trước niềm khoan khoái.
Tất cả uống xuýt xoa sự tĩnh tại,
Như nơi đây linh hồn trải, nở căng,
tới khi thành vỏ bọc sáng choang
hồn bao quanh tối tăm của thế giới.
XXVII
Một hồi tưởng, linh thiêng tôi đợi
qua miền sâu tâm trí chiếu cho tôi,
như màu trắng cẩm thạch tượng thánh lóng soi
qua ánh chờn vờn của cánh rừng tế lễ.
Hồi tưởng những vui vầy xưa đẹp đẽ
Nhớ về tháng Năm chết đã xa,-
Thẻ hương chắp trong tay trắng, những
ngày của tôi thầm lặng diễu qua.
XXVIII
Tin tôi đi, tôi rã rời vì đau ốm,
Không ham xuân huyên náo nữa đâu,
Chỉ muốn một ngày thu chớm ban đầu
sáng choang nắng trời và đỏ trên tán lá.
Không còn muốn đón trở về lồng ngực
niềm ham vui ánh ỏi reo trong,-
chỉ muốn sự lặng yên của hấp hối trong phòng
ở nơi đây - cho tôi hạnh phúc chết.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XXVI
Matt durch der Tale Gequalme wankt
Abend auf goldenen Schuhn, –
Falter, der träumend am Halme hangt,
weiss nichts vor Wonne zu tun.
Alles schlürft heil an der Stille sich. –
Wie da die Seele sich schwellt,
dass sie als schimmernde Hülle sich
legt um das Dunkel der Welt.
XXVII
EIN Erinnern, das ich heilig heisse,
leuchtet mir durchs innerste Gemüt,
so wie Götterbildermarmorweisse
durch geweihter Haine Dämmer glüht.
Das Erinnern einstger Seligkeiten,
das Erinnern an den toten Mai, –
Weihrauch in den weissen Händen, schreiten
meine stillen Tage dran vorbei ...
XXVIII
Glaubt mir, dass ich, matt vom Kranken,
keinen lauten Lenz mehr mag, –
will nur einen sonnenblanken,
wipfelroten Frühherbsttag.
Will die Lust, die jubelschrille,
nicht mehr in die Brust zurück, –
will nur Sterbestubenstille
drinnen – für mein totes Glück.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét