Hãy trốn cùng anh và làm vợ
Bên tim anh, em hãy nghỉ yên lành;
Cho em, tít nơi xa, trái tim anh
Là ngôi nhà cha sinh và tổ quốc.
Em không đi, vậy ở đây anh chết
Và còn em đơn độc và đơn côi;
Còn ở lại nhà cha sinh thế đó
Em sẽ như nơi lạ phương trời.
II.
(Đây là bài dân ca thực sự, tôi nghe thấy ở miền sông Ranh)
Trong đêm xuân rơi xuống hạt giá sương
Rơi vào những bông hoa mảnh xanh dương
Chúng úa tàn và khô héo.
Một chàng trai yêu một cô gái,
Cả hai lén lút trốn chạy khỏi nhà,
Không ai biết gì, cả mẹ lẫn cha.
Họ phiêu giạt hết đó rồi đây
Họ chẳng có sao hộ mệnh và vận may
Họ rã thân và đã chết.
III,
Một cây đoan mọc trên nấm mồ họ
Vi vu gió chiều và chim chóc hát reo,
Cậu thợ xay cùng với ả người yêu
Ngồi dưới đó, trên bãi xanh lục diệp.
Những ngọn gió chợt thoáng qua rùng rợn,
Sao bầy chim hót buồn bã, ngọt ngào,
Những gã tình nhân đang xì xèo, câm bặt
Khóc, và bản thân không biết nữa, vì sao.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ Bi kịch (Tragödie) từ tập Neue Gedichte - Những bài thơ mới, gồm 3 đoạn đánh theo số La mã.
Tragödie
Heinrich Heine (1797-1856)
I.
Entflieh mit mir und sei mein Weib,
Und ruh an meinem Herzen aus;
Fern in der Fremde sei mein Herz
Dein Vaterland und Vaterhaus.
Gehst du nicht mit, so sterb ich hier
Und du bist einsam und allein;
Und bleibst du auch im Vaterhaus,
Wirst doch wie in der Fremde sein.
II.
(Dieses ist ein wirkliches Volkslied, welches ich am Rheine gehört)
Es fiel ein Reif in der Frühlingsnacht,
Es fiel auf die zarten Blaublümelein,
Sie sind verwelket, verdorret.
Ein Jüngling hatte ein Mädchen lieb,
Sie flohen heimlich von Hause fort,
Es wußt weder Vater noch Mutter.
Sie sind gewandert hin und her,
Sie haben gehabt weder Glück noch Stern,
Sie sind verdorben, gestorben.
III.
Auf ihrem Grab, da steht eine Linde,
Drin pfeifen die Vögel und Abendwinde,
Und drunter sitzt, auf dem grünen Platz,
Der Müllersknecht mit seinem Schatz.
Die Winde, die wehen so lind und so schaurig,
Die Vögel, die singen so süß und so traurig,
Die schwatzenden Buhlen, die werden stumm,
Sie weinen und wissen selbst nicht warum.
Chú thích của người dịch:
Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.
George Sand viết về Heine:
„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."
„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand).
Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:
"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy sử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“
„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“
Tranh của Jan Vermeer van Delft, (1632-1675): Họa sĩ Hà Lan.