Thứ Tư, 1 tháng 7, 2020

Biểu tượng của sự vô nghĩa

Heinrich Heine (1797-1856)      



Bây giờ chúng ta cùng cao giọng
Hát bài về một con số, cùng ca
Đích danh nêu là chính số Ba
Sau sướng vui ắt đến ngay buồn bực.

Vốn con số có cội nguồn Ả Rập
Khắp vùng Thiên chúa giáo tuy nhiên
Không ai xưa ở châu Âu toàn cõi
Ngoan đạo hơn con số vốn hiền.

Nó là mẫu mực của nền nếp
Như con tôm hùm mặt đỏ lên dần;
Bắt cậu gia nô trên giường cô hầu gái,
Cho cả hai một cái vả nên thân.

Nhưng mà bây giờ đổi thay vần nhịp
Và những ngày cũng đổi thay cùng;
Vậy nên cái số Ba tội nghiệp phải
Cam chịu thêm khổ sở và ngượng ngùng.

Có lão thợ giầy đến, lão nói:
Cái đầu của số Ba có khi
Trông giống một con số Bảy bé ti
Đứng ở trên vầng trăng khuyết nửa.

Số Bảy là con số huyền bí
Của môn đệ Pythagoras (1) xưa xa,
Nửa trăng nghĩa: sự phục vụ Diana (2),
Nhắc nhở tộc người Sabeans (3) nữa.

Bản thân nó, số Ba là tín ngữ
Của bậc trưởng thượng xứ Babel,
Xưa kia thông qua mối tình duyên
Sinh ra ngụ ngôn ba ngôi thần thánh.

Một thợ thuộc da chen vào cự nự:
„Số Ba là cô ả ngốc sùng tin,
Được các chú cha ta thờ phụng
Xưa tin vào bất kể gái lọ lem.“

Lại có một bác thợ may cười nói,
Rằng làm chi có sự ấy trên đời!
Con số Ba, ấy là nó chỉ
Nằm ở trên giấy má mà thôi.

Số Ba đáng thương khi nghe điều ấy
Như một con vịt tuyệt vọng trông kìa
Lạch bạch chúi bên này, chúi bên kia
Nó đã than van và rên ư ử:

Tôi đã già nua như rừng và bể
Như ngôi sao đang nhấp nháy trên trời
Thấy những vương quốc xuất hiện và chôn vùi
Những tộc người dâng lên và chìm xuống

Tôi đứng ở khung cửi thời đại
Đang ầm ào hàng kỷ thiên niên
Tôi nhìn tỏ tường bụng dạ của tự nhiên
Tạo tác đang gầm gào và dậy sóng.

Mà bất chấp tôi đương đầu bão tố
Của những bạo cường linh cảm tối tăm
Tôi giữ nguyên của tôi sức thanh tân
Trong mọi sự ồn ào điều tiếng.

Đức hạnh giờ giúp gì cho tôi nhỉ?
Người thông thái, kẻ ngu đần nhạo tôi
Thế giới này bất công và tệ hại
Chẳng tha ai cạo trọc bôi vôi.

Mà thế, hãy an ủi mình, tim tôi ạ
Tin, yêu và hy vọng luôn còn;
Sự ngờ vực nào có thể cướp được
Của tôi ngụm rum và tách cà phê ngon.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ Biểu tượng của vô nghĩa (Symbolik des Unsinns) từ chùm Zur Olla của tập Neue Gedichte - Những bài thơ mới.

Symbolik des Unsinns

Heinrich Heine (1797-1856)

Wir heben nun zu singen an
Das Lied von einer Nummer,
Die ist geheißen Nummer Drei;
Nach Freuden kommt der Kummer.

Arabischen Ursprungs war sie zwar,
Doch christentümlich frummer
In ganz Europa niemand war
Wie jene brave Nummer.

Sie war ein Muster der Sittlichkeit
Und wurde rot wie ein Hummer,
Fand sie den Knecht im Bette der Magd;
Gab beiden einen Brummer.

Des Morgens trank sie den Kaffee
Um sieben Uhr im Summer,
Im Winter um neun, und in der Nacht
Genoß sie den besten Schlummer.

Jetzt aber ändert sich der Reim,
Und ändern sich die Tage;
Es muß die arme Nummer Drei
Erdulden Pein und Plage.

Da kam ein Schuster und sagte: der Kopf
Der Nummer Drei, der sähe
Wie eine kleine Sieben aus,
Die auf einem Halbmond stehe.

Die Sieben sei aber die mystische Zahl
Der alten Pythagoräer,
Der Halbmond bedeute Dianendienst,
Er mahne auch an Sabäer.

Sie selber, die Drei, sei Schiboleth
Des Oberbonzen von Babel;
Durch dessen Buhlschaft sie einst gebar
Die heilge Dreieinigkeitsfabel.

Ein Kürschner bemerkte dagegen: die Drei
Sie eine fromme Trulle,
Verehrt von unsern Vätern, die einst
Geglaubt an jede Schrulle.

Da war ein Schneider, der lächelnd sprach,
Daß gar nicht existiere
Die Nummer Drei, daß sie sich nur
Befinde auf dem Papiere.

Als solches hörte die arme Drei,
Wie eine verzweifelte Ente,
Sie wackelte hin, sie wackelte her,
Sie jammerte und flennte:

Ich bin so alt wie das Meer und der Wald,
Wie die Stern, die am Himmel blinken;
Sah Reiche entstehn, sah Reiche vergehn
Und Völker aufsteigen und sinken.

Ich stand am schnurrenden Webstuhl der Zeit
Wohl manches lange Jahrtausend;
Ich sah der Natur in den schaffenden Bauch,
Das wogte brausend und sausend.

Und dennoch widerstand ich dem Sturm
Der sinnlich dunkeln Gewalten -
Ich habe meine Jungferschaft
In all dem Spektakel behalten.

Was hilft mir meine Tugend jetzt?
Mich höhnen Weise und Toren;
Die Welt ist schlecht und ungerecht,
Läßt niemand ungeschoren.

Doch tröste dich, mein Herz, dir blieb
Dein Lieben, Hoffen, Glauben,
Auch guter Kaffee und ein Schlückchen Rum,
Das kann keine Skepsis mir rauben.

Chú thích của người dịch:

(1) Pythagoras von Samos (570-510 trước Công Nguyên): Nhà triết học, nhà toán học trước Sokates. Môn đồ của ông tìm cách lý giải vạn vật trong sự hính thành và cấu trúc, phát triển theo tính các con số.
(2) Diana trong thần thoại Roma là nữ thần mặt trăng, tương đương với Artemis trong thần thoại Hy Lạp.
(3) Sabeans: Sắc tộc Do thái từng cư ngụ phía Tây Nam bán đảo Ả Rập.

Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.

George Sand viết về Heine:
„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."

„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand).

Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:
"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy sử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“

„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.

Tranh của William Turner (1775-1851): Họa sĩ Anh thời kỳ Lãng mạn.

1 nhận xét:

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...