Thứ Năm, 25 tháng 3, 2021

BẢO TÀNG SÁP CỦA TINH THẦN

Eckart Kleßmann     
 


Trong thế giới của nhà thơ Georg Trakl Chúa hiện diện như lời và khái niệm, nhưng ở rất xa cách con người, hãy đừng nói gì với họ, cũng không ra dấu gì cho họ. Chúa im lặng, bởi Chúa đã quay lưng lại với con người. Cái thế giới hồi chiếu lại trong thơ trữ tình của Trakl, là một thế giới bị Chúa bỏ đi, không còn lòng nhân từ, ân huệ, không hy vọng vào sự cứu rỗi, nhưng trước hết không có Chúa Ki tô. Và vậy đó trong một cuộc trò chuyện vào tháng Giêng 1914, nhà thơ đã thú nhận một cách cả quyết, rằng ông là một tín đồ Ki-tô (Tin lành). Nhưng đồng thời cũng bổ sung thêm một câu lạ tai đối với một tín đồ Thiên Chúa giáo:

Tôi không có cái quyền thoát ra khỏi địa ngục.

Nếu một ngôi nhà thờ là ngôi nhà của Chúa, thì trong bài thơ này, Chúa đã bỏ nhà của mình đi từ lâu và để lại đó một gian chứa đồ cũ lỉnh kỉnh những hàng đồng nát của tinh thần, như một trường bày “những mặt nạ, những lá cờ”. Cảnh trí nội thất quen thuộc của những nhà thờ baroque cơ đốc giáo: những thiên thần tô vẽ, những bộ xương cốt quàn trong quan tài thủy tinh, chân dung của các thánh, một tượng Đức Chúa bằng sáp giữa các chòm tinh tú, khói nhang.

Nhưng mà sự reo vui từ màu và hình khối thông thường tuôn ra từ nhiều nhà thờ của thế kỷ 18 lại câm tiếng nhường chỗ cho một tâm trạng ưu uất hoàn toàn không thương tiếc. Và những thiên thần được nêu ra trong câu thơ đầu tiên và cuối cùng không là thiên sứ của Chúa chẳng hạn, mà chỉ như là những phù tá trang trí vô hồn.

Nội thất nhà thờ như một sưu tập những đạo cụ và hậu cảnh trong đó những hình thể “rên rỉ dạt vào cõi trống không” bởi không ai nghe thấy tiếng cầu kinh của họ. Hương khói được trộn vào thứ “dung dịch bẩn”, tiếng hát câm bặt, sự nín lặng của Đức Chúa biến mất lan tỏa. Cô điếm trông như Đức Mẹ, người đàn bà chửa ở lại đơn độc với nỗi sợ hãi của bà. Sự siêu thoát được Đấng Cứu Rỗi tiên lượng như khước từ những người khó nhọc và nặng gánh (1). Không chỉ một mình “Chúa râu trắng” là một tượng bằng sáp trong một Viện bảo tàng sáp của tinh thần.

Chỉ ở một chỗ duy nhất sự xơ cứng đến cong queo đã giải tỏa: trong màu đỏ của môi Madalena đang xối trào. Về Maria Madalena người ta thường đánh đồng nàng với “người mắc tội” trong Kinh Sáng Thế của Lu-ca, Chúa Giê-su có lần nói:

Đã được tha nhiều tội lỗi, bởi chưng nàng đã yêu rất nhiều.

Trong thời Trung cổ, thánh Madalena được coi như nữ thần phù hộ của những gái điếm. Đó là “đôi môi Madalena”, xưa đã từng hôn lên đôi bàn chân của Đấng Cứu Thế mà màu đỏ bắt đầu xối tuôn như máu. Ấy chính là máu của tội lỗi và sắc đỏ của nạn nhân trên đồi Golgatha.

Điều đó giải thích, tại sao “cô điếm nhỏ gò má xanh xao” được so sánh với gương mặt của Đức Mẹ Maria một cách không hề báng bổ thần thánh. Kể cả “người đàn bà chửa” hiển nhiên không cảm thấy mình thuộc về “thánh thể ban ơn phước”, phần nhiều hơn bị những nỗi hoảng sợ đeo đẳng, đã tương hợp với Ba Ngôi chị em này. Hình ảnh của Maria – “ơn phước thay hoa trái của thân thể ngươi” (2) có nên được liên tưởng với điều đó chăng? Không còn mấy xa nữa ý nghĩ, rằng nàng Madalena một trong ba ngôi của cứu rỗi, của ơn phước của tha thứ dường như biết điều này sát thực hơn những người kia, nếu như trong thế giới hình dung của Trakl những khái niệm này có chỗ đứng.

Khởi đầu và kết thúc bài thơ viết khoảng giữa năm 1909 và 1912 xuất hiện sự bình an. Nhưng mà ở đó không tưởng nhớ Đấng Toàn Năng của Sáng Thế đã yên nghỉ vào ngày thứ bảy. Ở đây sự Bình an tương ứng với Yên lặng của nấm mồ, từ sự thối rữa sẽ không còn sự phục sinh nữa.

Nguồn: Marcel Reich-Ranicki (Hrsg.): Một trăm bài thơ của thế kỷ – Hundert Gedichte des Jahrhunderts, Insel Verlag, 2000

NHÀ THỜ

Georg Trakl (1887-1914)

Những thiên thần vẽ canh giữ bàn thờ
Tia bắn từ những mắt xanh; và lặng tờ, bóng tối.
Dung dịch bẩn dập dờn trong làn hương khói.
Những dáng hình rên rỉ dạt vào cõi trống không.

Trên ghế xưng tội đen, tựa như Đức Mẹ
Một cô điếm nhỏ đôi má xanh xao.
Ở những tia sáng vàng tượng sáp treo cao;
Trăng và mặt trời lượn quanh Chúa râu trắng.

Một ánh chiếu của cột khảm và những bộ xương cốt.
Dàn đồng ca bé trai chết hẳn giọng ngọt ngào.
Những màu đắm chìm đang cựa quậy rất khẽ,
Từ môi thánh Madalena một màu đỏ xối trào.

Trong giấc mộng nặng nề một bà chửa đi lạc
Qua nhá nhem đây đầy những mặt nạ, lá cờ.
Bóng bà sổ chéo đường bay của thần thánh lặng tờ,
Sự tĩnh tại của thiên thần trong những phòng quét vữa.

Nguyên tác tiếng Đức:

DIE KIRCHE

Georg Trakl (1887-1914)

Gemalte Engel hüten die Altäre;
Und Ruh und Schatten; Strahl aus blauen Augen.
In Weihrauchdünsten schwimmen schmutzige Laugen.
Gestalten schwanken jammervoll ins Leere.

Im schwarzen Betstuhl gleichet der Madonne
Ein kleines Hürlein mit verblichnen Wangen.
An goldnen Strahlen Wachsfiguren hangen;
Weißbärtigen Gott umkreisen Mond und Sonne.

Ein Schein von weichen Säulen und Gerippen.
Am Chor der Knaben süße Stimmen starben.
Sehr leise regen sich versunkene Farben,
Ein strömend Rot von Magdalenens Lippen.

Ein schwangeres Weib geht irr in schweren Träumen
Durch diese Dämmerung voll Masken, Fahnen.
Ihr Schatten kreuzt der Heiligen stille Bahnen,
Der Engel Ruh in kalkgetünchten Räumen.

Chú thích của người dịch:

(1) Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng (Kinh Thánh)

(2) Ngươi có phải trong đám đàn bà, thai trong lòng ngươi cũng được phước. (Kinh Thánh – Luca 1:42)

Eckart Kleßmann (sinh năm 1933): Nhà báo, nhà văn, nhà sử học.

Georg Trakl (1887-1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905: Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng La Linh, tiếng Hy Lạp và Toán), không đỗ tú tài * 1908: Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành Dược* 1910: Học xong bằng Y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocaine quá liều.

Maria Magdelena – Tranh của El Greco (1541-1614) : Họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư Tây Ban Nha gốc Hy Lạp.

Thứ Hai, 22 tháng 3, 2021

Nhà thờ

Georg Trakl (1887-1914)



Những thiên thần vẽ canh giữ bàn thờ
Tia bắn từ những mắt xanh; và lặng tờ, bóng tối.
Dung dịch bẩn dập dờn trong làn hương khói.
Những dáng hình rên rỉ dạt vào cõi trống không.

Trên ghế xưng tội đen, tựa như Đức Mẹ
Một cô điếm nhỏ đôi má xanh xao.
Ở những tia sáng vàng tượng sáp treo cao;
Trăng và mặt trời lượn quanh Chúa râu trắng.

Một ánh chiếu của cột khảm và những bộ xương cốt.
Dàn đồng ca bé trai chết hẳn giọng ngọt ngào.
Những màu đắm chìm đang cựa quậy rất khẽ,
Từ môi thánh Madalena một màu đỏ xối trào.

Trong giấc mộng nặng nề một bà chửa đi lạc
Qua nhá nhem đây đầy những mặt nạ, lá cờ.
Bóng bà sổ chéo đường bay của thần thánh lặng tờ,
Sự tĩnh tại của thiên thần trong những phòng quét vữa.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Die Kirche

Georg Trakl (1887-1914)

Gemalte Engel hüten die Altäre;
Und Ruh und Schatten; Strahl aus blauen Augen.
In Weihrauchdünsten schwimmen schmutzige Laugen.
Gestalten schwanken jammervoll ins Leere.

Im schwarzen Betstuhl gleichet der Madonne
Ein kleines Hürlein mit verblichnen Wangen.
An goldnen Strahlen Wachsfiguren hangen;
Weißbärtigen Gott umkreisen Mond und Sonne.

Ein Schein von weichen Säulen und Gerippen.
Am Chor der Knaben süße Stimmen starben.
Sehr leise regen sich versunkene Farben,
Ein strömend Rot von Magdalenens Lippen.

Ein schwangeres Weib geht irr in schweren Träumen
Durch diese Dämmerung voll Masken, Fahnen.
Ihr Schatten kreuzt der Heiligen stille Bahnen,
Der Engel Ruh in kalkgetünchten Räumen.

Chú thích của người dịch:

Georg Trakl (1887-1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905: Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng La tinh, tiếng Hy Lạp và Toán), không đỗ tú tài * 1908: Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành Dược* 1910: Học xong bằng Y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocaine quá liều.

Tranh của Wassily Kandinsky (1866-1944): Họa sĩ, nhà đồ họa và lý thuyết nghệ thuật người Nga.

Thứ Hai, 15 tháng 3, 2021

Tâm tình với câm lặng

Horst Bienek  



Trong khu vực nói tiếng Đức danh tiếng của Peter Huchel lớn. Ở đó ông xuất bản lại không nhiều hơn 100 bài thơ. Ông chẳng hề là một người cách tân, cũng chẳng là cây bút tiền phong lẫn người phê phán thời đại. Có dễ trước hết ông nhiệt thành qui thuận về truyền thống. Ông ấy là người cam chịu, và một nhà đạo đức. Không suy suyển, đĩnh đạc, giản dị, tỷ mỷ, về mặt con người cũng như về nghệ thuật. Bằng cung cách nguyên bản nhất, ông đã chứng minh, cái nhỏ có thể lớn, cái ít có thể nhiều và quê hương chật hẹp là thế giới. Luôn lặp đi lặp lại, ông đã miêu tả cái phong cảnh nơi ông xuất thân, bầu trời, cây cối, những ao hồ vùng Mark, những người dân sống nơi đó, những tình cảm thầm kín, những đồ vật giản phác.

Có thể đó chính là thứ nơi ông gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Bất kể ông xuất hiện nơi đâu trong những năm cuối đời, khán phòng đầy người, già trẻ cùng đến để lắng nghe ông đọc ở đây với cái giọng nhỏ nhẹ đã trở nên đứt quãng, tóc trắng như cước chải rành rẽ vuốt trên trán, một gương mặt của Xê da, vẫn còn đẹp trong độ tuổi lão trượng.

Trước 1933 Huchel đã xuất bản những bài thơ đầu tay. Người ta đã có thể tính ông cùng với Wilhelm Lehmann và Elisabeth Langgässer vào những nhà ảo thuật của thiên nhiên. Ông sống theo một kiểu lưu đày nội tâm trong đế chế III. Sau chiến tranh ông trở thành người phụ trách chương trình của Đài truyền thanh Berlin và chẳng mấy chốc sau đó lĩnh nhiệm vụ Tổng biên tập của tờ tạp chí Sinn und Form, với tờ đó ông muốn môi giới văn chương thế giới giữa phía Đông và phía Tây và bất chấp một số mối thù ghét ông đã thực hiện được mong ước này tới năm 1962. Sau đó ông bị lật đổ. Tại CHDC Đức không thứ gì ông viết ra được in ấn nữa. Ngôi nhà của ông bị mật vụ an ninh Stasi canh gác, những khách đến thăm bị đuổi về, sự đi lại sang phương Tây bị bác bỏ. Người biệt giam cấm cố của vùng Wilhelmshorst. Ông chính là người đó ròng rã 9 năm trời. Sau đó họ để ông đi. Một thời gian ông sống ở Rom, sau đó tại Satufen thuộc Breisgau, nơi ông mất năm 1981. Một giải thưởng uy tín dành cho thơ mang tên ông.

Bài thơ „Lưu đày“, ra đời khoảng năm 1966, mang sức lực của ngôn từ bi ai, như hàm chứa ma lực đen tối; bài thơ đạt chiều kích thực tế và mang tính sinh tồn của nó trước bối cảnh xảy ra trong tiểu sử. Tên bài mang đặc tính báo hiệu. Phong cảnh được huy động ở đây ngay lập tức có chút gì bí hiểm, đằng sau mỗi từ ẩn chứa đe dọa, sau mỗi hình tượng lởn vởn một cạm bẫy.

Lưu đày có nghĩa là tồn sinh một mình, tồn tại trong ruồng rẫy. Những người bạn duy nhất lui tới thăm nhà vào chiều tối là những bóng râm của những ngọn đồi. Chúng bò vào chậm chạp, phủ tối đi tất cả, từng đồ vật thứ nọ sang thứ kia, xung quanh, ở cả tâm hồn nữa. Anh muốn đi khỏi, nhưng anh không thể. Lá cây phong có khi rụng trước. Hòn đá, thứ kiên định, không khuyên anh đi khỏi đây. Và không khuyên ở lại. Nó chỉ nói, hãy trung thành. Với bản thân anh. Và như thế, kẻ bị lưu đày nói chuyện tay đôi với sự câm lặng của mình, suốt đêm trường, cho tới bình minh, cho đến lúc ánh sáng và vòm lá xanh hòa nhập thành một trước cửa sổ và tất cả tàn phai trong ánh sáng trắng của ban ngày. Không có gì được định đoạt. Không có gì tháy đổi. Sự lưu đầy vẫn kéo dài.

Không thịnh nộ, không giận dữ, chỉ buồn, nín câm, yên lặng và ý thức nán lại trung thành với chính bản thân. Như hòn đá là một hòn đá, ngọn lửa là một ngọn lửa, một chiếc lá phong là một chiếc lá phong. Chờ đợi, cho đến khi tĩnh lặng lên tiếng, sự lưu đày của giấu kín kết thúc, bóng tối trở thành lời và lời thành một bài thơ. „Trong cái ngày tôi rời đi“, như sau này ông viết trong một bài thơ khác“ những con quạ lánh đi …một hơi băng giá quét qua gian kho chứa của lời.“

Người ta có thể đọc điều đó như một bi ca của thiên nhiên. Và ở đó chính là một bài thơ chính trị xuất sắc. Tiêu đề giản chiết luôn gợi ta nhớ về điều đó.

Nguồn; Horst Bienek, aus Marcel Reich-Ranicki (Hrsg.): Một trăm bài thơ của thế kỷ , 2000 - Hundert Gedichte des Jahrhunderts, Insel Verlag, 2000

Lưu đày

Peter Huchel (1903-1981)

Những người bạn lại gần khi chiều xuống
- Ấy những bóng đổ từ những ngọn đồi
Chúng chậm rãi bò qua bậu cửa
phủ đen muối
phủ tối bánh mỳ
và chuyện trò với nỗi niềm tôi câm lặng.

Ngoài kia trong lùm phong Na Uy
làn gió thoáng đưa;
Chị gái tôi, hứng nước mưa
vào máng đá vôi,
chị dõi nhìn theo
những đám mây trời.

Hãy đi cùng gió!
Những bóng râm nói.
Mùa hè đặt lưỡi liềm sắt
lên trái tim anh.
Đi đi, trước khi
chứng tích của mùa thu
bùng cháy trong lá phong.

Hãy thủy chung, hòn đá nói.
Bình minh le lói
dâng lên, nơi ánh sáng và
vòm lá sống trong nhau
và gương mặt tàn phai
trong một ngọn lửa.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Exil

Peter Huchel (1903-1981)

Am Abend nahen die Freunde,
die Schatten der Hügel.
Sie treten langsam über die Schwelle,
verdunkeln das Salz,
verdunkeln das Brot
und führen Gespräche mit meinem Schweigen.

Draußen im Ahorn
regt sich der Wind;
Meine Schwester, das Regenwasser,
in kalkiger Mulde,
gefangen
blickt sie den Wolken nach.

Geh mit dem Wind,
sagen die Schatten.
Der Sommer legt dir
die eiserne Sichel aufs Herz.
Geh fort, bevor im Ahornblatt
das Stigma des Herbstes brennt.

Sei getreu, sagt der Stein.
Die dämmernde Frühe
hebt an, wo Licht und Laub
ineinander wohnen
und das Gesicht
in einer Flamme vergeht.

Chú thích của người dịch:

Horst Bienek (1930-1990): Nhà văn Đức,sau chiến tranh định cư ở vùng chiếm đóng Sô viết (DDR). Viết thơ cho tạp chí "Sinn und Form". Năm 1951 bị An ninh quốc gia Stasi bắt, và một tòa án quân sự Sô viết tuyên 20 năm khổ sai vì cáo buộc gọi là „tuyên truyền chống sô viết và làm gián điệp cho Mỹ“. Sau 4 năm lao động khổ sai tại trại gulag Workuta (Liên Sô), ông được ân xá vào năm 1955. Tại CHLB Đức, quốc gia đón nhận, ông viết văn, làm giám đốc nhà xuất bản dtv (Deutscher Taschenbuch-Verlag) và phụ trách ban văn chương của Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria.

Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên.
Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin
1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna
1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: "Die literarische Welt", "Das Innere Reich", "Die Kolonne" và "Vossische Zeitung".
1932: Giải thưởng thơ của tạp chí „Kolone“ cho tập thơ "Der Knabenteich" (Hồ của những cậu trai)
1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal.
1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức.
1941-1945: Nghĩa vụ quân sự, phục dịch trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam sô-viết.
1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật.
1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập „Những bài thơ“.
1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng „Sinn und Form“ (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin.
1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. Từ 1956 đại diện DDR tại Biennale thơ ca quốc tế.
1953: Bị o ép từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải làm ngơ.
1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống.
1962: Từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“
1963: tập thơ „Chausseen, Chausseen“ xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane-Preis của Tây Berlin.
1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fotane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín.
1965: Không được rời DDR nhận chức thỉnh giảng về thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen.
1971: Nhờ có sự can thiệp của Viện hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ „Những ngày tính đếm“.
1976 – 1979 Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Jacob-Burckhardt-Preis und dem Eichendorff-Preis).
1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện hàn lâm thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông.
Peter Huchel mất năm 1981.

Tranh của Gabriele Münter (1877-1962): Nữ họa sĩ Đức, đại diện quan trọng của phái Biểu hiện.

Chủ Nhật, 7 tháng 3, 2021

Lưu đày

Peter Huchel (1903-1981)    




Những người bạn lại gần khi chiều xuống
- Ấy những bóng đổ từ những ngọn đồi.
Chúng chậm rãi bò qua bậu cửa
phủ đen muối
phủ tối bánh mỳ
và chuyện trò với nỗi niềm tôi câm lặng.

Ngoài kia trong lùm phong Na Uy
làn gió thoáng đưa;
Chị gái tôi, hứng nước mưa
vào máng đá vôi,
chị dõi nhìn theo
những đám mây trời.

Hãy đi cùng gió!
Những bóng râm nói.
Mùa hè đặt lưỡi liềm sắt
lên trái tim anh.
Đi đi, trước khi
chứng tích của mùa thu
bùng cháy trong lá phong.

Hãy thủy chung, hòn đá nói.
Bình minh le lói
dâng lên, nơi ánh sáng và
vòm lá sống trong nhau
và gương mặt tàn phai
trong một ngọn lửa.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức;

Exil

Peter Huchel (1903-1981)

Am Abend nahen die Freunde,
die Schatten der Hügel.
Sie treten langsam über die Schwelle,
verdunkeln das Salz,
verdunkeln das Brot
und führen Gespräche mit meinem Schweigen.

Draußen im Ahorn
regt sich der Wind;
Meine Schwester, das Regenwasser,
in kalkiger Mulde,
gefangen
blickt sie den Wolken nach.

Geh mit dem Wind,
sagen die Schatten.
Der Sommer legt dir
die eiserne Sichel aufs Herz.
Geh fort, bevor im Ahornblatt
das Stigma des Herbstes brennt.

Sei getreu, sagt der Stein.
Die dämmernde Frühe
hebt an, wo Licht und Laub
ineinander wohnen
und das Gesicht
in einer Flamme vergeht.

Chú thích của người dịch:

Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên.
Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin.
1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna.
1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: "Die literarische Welt", "Das Innere Reich", "Die Kolonne" và "Vossische Zeitung".
1932: Giải thưởng thơ của tạp chí „Kolone“ cho tập thơ "Der Knabenteich" (Hồ của những cậu trai).
1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal.
1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức.
1941-1945: Quân dịch, phục vụ trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam sô-viết.
1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 Giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật.
1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập „Những bài thơ“.
1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng „Sinn und Form“ (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin.
1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. 1956 Người đại diện chính thức của DDR tại Biennale thơ ca quốc tế.
1953: Bị cưỡng ép từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải dừng tay.
1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống.
1962: Từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“
1963: Khi tập thơ „Chausseen, Chausseen“ xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane-Preis của Tây Berlin.
1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fotane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín.
1965: Không được rời DDR nhận chức thỉnh giảng về Nghệ thuật thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen.
1971: Nhờ sự can thiệp của Viện hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ „Những ngày đếm tận“ (Gezählte Tage).
1976 – 1979 Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Jacob-Burckhardt-Preis và Eichendorff-Preis).
1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện hàn lâm thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông.
Peter Huchel mất năm 1981.

Tranh của Natela Iankoshwili (1918-2008): Nữ họa sĩ người Georgia (Grusien/Georgien)

Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2021

Sự nín lặng của muộn sầu

Mathias Mayer     
 

Không biết được Georg Trakl, chỉ sống đến năm 27 tuổi đời, đã bao giờ nhìn thấy một trong những bức tranh hoa hướng dương của Vincent van Gogh – một nghệ sĩ đứng ngoài những trật tự tư sản mà ở nhiều khía cạnh ông có thể cảm thấy mình có tình đồng cảm. Cả bài thơ này cũng xoay quanh một tĩnh vật, cái đồng thời như một nature morte được vận động bởi một vở kịch sinh tồn đầy nhiệt huyết: ở đây không có ranh giới giữa cây cỏ và con người, giữa những đóa hoa mọc cao vút và người ngắm nhìn chúng; sự tồn tại câm lặng của chúng gây xúc động cho người đó như một sự tương đồng bên trong, như một sự gần gũi chị em với cái chết. Trong văn bản ngắn có hai lần màu vàng kim được đề cập tới – một điểm nhấn sâu đậm, gần như sự chuyển tải bông hoa sang một viễn tượng của thi ca. Với „năm của Helian“ (1) nhà thơ nổi tiếng cả vì những mật mã thường khi khó tiếp cận của mình đã gọi lên một trong những hình tượng đầy hàm chứa nhất của mình.

Dòng thơ „Helian“ lớn, sự gọi hồn của một Thiên nhiên thần linh hiến tế về suy tàn đã có ý nghĩa nhiều cho Trakl đến mức khiến ông xếp dòng thơ vào cuối cuốn tập hợp thơ của mình xuất bản năm 1913. Khi ở đây sự hấp hối của những đóa hoa được tạo dựng với kết thúc của năm Helian „mát lạnh vùng sơn cước“, thiên nhiên và thụ cảm, cái bên ngoài và cái bên trong cùng nhập vào một hợp thành của thơ không xác chứng được trong thực tế. Người ta hay truy tìm căn nguyên của sự thẩm thấu nhiều thế giới khác nhau siêu thực thường bắt gặp lúc thì ở nơi các thử nghiệm trải ma túy hoặc là những giấc mơ, lúc thì bởi những tác động ảo thanh mê hoặc của Trakl. Tuy nhiên bài thơ người thi sĩ không bao giờ công bố kết cục nói tới một tình đoàn kết của siêu nhiên; với hoa hướng dương hiện diện, nhân tính cũng hiển lộ: nói tới đây là những nụ hôn, một vầng trán rạo rực và thần linh. Cái thuộc về con người của sự nhẫn nại, của muộn sầu và của tinh thần bộc lộ giữa khổ thơ thứ hai „ giữa lòng những đóa vàng kim của sầu muộn“. Một thần linh của bóng tối và của câm lặng - ở đây bừng sắc một phong cảnh mê hoặc đang suy tàn, trong vẻ tĩnh lặng của sự thấm nhuần một tình thâm thiết đặc biệt.

Mà thế người ta không nên đọc bài thơ trần trụi như là độc thoại của một kẻ độc hành, bên cạnh tổng thể Helian bài thơ gọi tên hai con người ngoài lề khác của cuộc sống tư sản: Charles Baudelaire và Những bông hoa Ác cũng như Hölderlin (2), một trong những bài nghiệm đọc lớn khác của Trakl. Bài thơ „Nửa cuộc đời“ của tác giả này, hai khổ mỗi khổ gồm 7 dòng, trong tiếng dạo của câu thơ đầu gợi nhớ âm hưởng của câu thơ Hölderlin ở giữa khổ đầu tiên: „Mi những con thiên nga diễm lệ“. cũng như vậy, thứ „ đắm say bởi những nụ hôn“ nọ bắt đầu ở khổ thứ hai. Với cấu trúc đó bài thơ của Trakl cũng xuất hiện như sự tham gia vào một truyền thống lớn, vào một cuộc hội thoại đồng thời trả lời cho „bóng tối im lặng“. Tức những gì là độc thoại, những gì vẻ như được chốt kín ở đây đã vượt qua nhờ nhiều hơn vào một tình đoàn kết của ý thức đồng cảm với bất hạnh, kết cục nhờ một trách nhiệm xã hội không có những xung lực mang tính chương trình của một bước đột phá; Trakl đã không vun xới sự thống thiết kêu gọi nhân loại của Nietzsche; thơ ông, cũng trong hình ảnh của những đóa hướng dương tàn úa, gần gũi với Dostojweski, đã trở thành nơi lánh nạn cho „Những người bị nhục mạ và giày xéo“, như những người đương thời được một Egon Schiele (3) ghi nhận.

Thời gian ngắn sau khi bài thơ ra đời, được ông viết trong tháng Sáu hay tháng Bảy năm 1914, Trakl lao vào cuộc chiến tranh thế giới, lưu lại một sự phản ánh ngắn ngủi cho xuất hiện một đoạn phim cháy được Trakl trải qua và cảm thấy qua đó bản thân ông đi qua thực tại, trong ánh sáng đáng ngạc nhiên của một trọng trách xã hội:
"Cảm giác trong những khoảnh khắc của tồn tại giống như đã chết: Tất cả mọi người đều đáng được yêu. Trưởng thành hơn, anh cảm nhận thấy sự đắng cay của thế giới; trong đó bao hàm toàn thể tội lầm của anh không được lượng xá; gương mặt anh như hình phạt không vẹn toàn."
Trong những câu đó cũng ẩn giấu một chút gì thuộc nhãn quan thế giới mang tính phê phán của một Karl Kraus, người Trakl hâm mộ, chính là kẻ viết về Trakl sau khi ông chết đi:
"Tôi đã luôn không hình dung ra nổi, rằng ông ấy đã có thể sống trên đời."

Trong trận đánh Grodek, sau khi kiệt sức với việc chăm sóc 90 thương binh, ông đã tự nguyện kết thúc cuộc đời mình.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

N
hững bông hướng dương

Georg Trakl (1887 – 1914)

Mi hoa hướng dương kim vàng
Mật thiết hướng ngả về hấp hối
Mi những chị em hết mực khiêm cung
Trong bầu tĩnh lặng đó
Kết thúc năm Helian
Của khí lạnh miền sơn cước.
Nơi đó vầng trán rạo rực
Nhợt nhạt bởi những nụ hôn
Giữa lòng những đoá hoa vàng kim
Của sầu muộn
Định đoạt thần linh
Bóng tối câm lặng.

Nguyên tác tiếng Đức 

Die Sonnenblumen

Georg Trakl (1887 – 1914)

Ihr goldenen Sonnenblumen,
Innig zum Sterben geneigt,
Ihr demutsvollen Schwestern
In solcher Stille
Endet Helians Jahr
Gebirgiger Kühle.
Da erbleicht von Küssen
Die trunkne Stirn ihm
Inmitten jener goldenen
Blumen der Schwermut
Bestimmt den Geist
Die schweigende Finsternis.

Chú thích của người dịch:
(1) Tên một bài thơ của Georg Trakl, Helian khởi nguồn từ chữ Heiland (Miền đất cứu thế).
(2) Johann Christian Friedrich Hölderlin (1770 – 1843) đứng vào hàng những nhà thơ quan trọng nhất trong tiếng Đức. Tác phẩm độc đáo của thi sĩ, chiếm một vị trí độc lập bên trào lưu Cổ điển Weimar và Lãng mạn, là một đỉnh cao của văn chương Đức nói riêng và văn chương phương Tây nói chung.
(3) Egon Schiele (1890-1928): Họa sĩ Áo, đại diện quan phái Biểu hiện và Hiện đại Vienna.

Mathias Mayer: sinh năm 1958, Giáo sư Tiến sĩ chuyên ngành Văn học Đức thời mới, giảng viên trường Tổng hợp Regenburg.

Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.
Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905 Học xong trung học, được coi là học trò kém, không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakau sau khi dùng cocaine quá liều.

Tranh của © Vincent van Gogh (1853-1890), họa sĩ Hà Lan.

Thứ Hai, 1 tháng 3, 2021

Những bông hướng dương

Georg Trakl (1887 – 1914)    
 

Mi hoa hướng dương kim vàng,
Mật thiết hướng ngả về hấp hối,
Mi những chị em hết mực khiêm cung
Trong bầu tĩnh lặng đó
Kết thúc năm Helian
Của khí lạnh miền sơn cước.

Nơi đó vầng trán rạo rực
Nhợt nhạt bởi những nụ hôn
Giữa lòng những đoá hoa vàng kim
Của sầu muộn
Xác định thần linh
Bóng tối câm lặng.

©®Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Die Sonnenblumen

Georg Trakl (1887 – 1914)

Ihr goldenen Sonnenblumen,
Innig zum Sterben geneigt,
Ihr demutsvollen Schwestern
In solcher Stille
Endet Helians Jahr
Gebirgiger Kühle.

Da erbleicht von Küssen
Die trunkne Stirn ihm
Inmitten jener goldenen
Blumen der Schwermut
Bestimmt den Geist
Die schweigende Finsternis.

Chú thích của người dịch:

Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905 Học xong trung học, được coi là học trò kém, không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakau sau khi dùng cocain quá liều.

Tranh của Emil Nolde (7. 8. 1867 – 13. 4. 1956): Một trong những đại diện phái Biểu hiện Đức, và được coi là một trong những họa sĩ sơn dầu và màu nước xuất sắc của thế kỷ 20.

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...