Người ta phải để sự vật có
sự phát triển riêng, thầm lặng
không bị quấy đảo,
đến tự sâu bên trong
không dồn ép
hoặc tăng tốc bởi bất kỳ thứ gì
tất cả được thai nghén – và
sau rồi sinh nở…
Chín muồi như cái cây,
không ép dồn nước sinh tố của nó
và đứng hiên ngang trong giông tố của mùa xuân,
không sợ hãi,
rằng sau đó
có thể không
mùa hè nào đến.
Vậy mà mùa hè đến!
Nhưng chỉ đến với người kiên nhẫn,
đó đây, như thể Vĩnh cửu
phủ phục trước họ,
vô sự, xa xăm và lặng lẽ…
Người ta phải có lòng nhẫn nại
Với điều không thể hóa giải trong tim
và tìm cách yêu thương lấy những tra vấn của mình,
như những căn phòng khóa kín,
và như những cuốn sách
được viết trong một ngôn ngữ rất xa lạ.
Trọng tâm xoay quanh việc nghiệm sinh tất cả.
Nếu người ta sống trải những tra vấn,
một cách không nhận biết,
vào một ngày lạ xa nào đó
dần dà người ta có thể
sống vào trong những câu trả lời.
Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Über die Geduld
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Man muss den Dingen
die eigene, stille
ungestörte Entwicklung lassen,
die tief von innen kommt
und durch nichts gedrängt
oder beschleunigt werden kann,
alles ist austragen – und
dann gebären…
Reifen wie der Baum,
der seine Säfte nicht drängt
und getrost in den Stürmen des Frühlings steht,
ohne Angst,
dass dahinter kein Sommer
kommen könnte.
Er kommt doch!
Aber er kommt nur zu den Geduldigen,
die da sind, als ob die Ewigkeit
vor ihnen läge,
so sorglos, still und weit…
Man muss Geduld haben
Mit dem Ungelösten im Herzen,
und versuchen, die Fragen selber lieb zu haben,
wie verschlossene Stuben,
und wie Bücher, die in einer sehr fremden Sprache
geschrieben sind.
Es handelt sich darum, alles zu leben.
Wenn man die Fragen lebt, lebt man vielleicht allmählich,
ohne es zu merken,
eines fremden Tages
in die Antworten hinein.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Gabriele Münter (1877-1962): Nữ họa sĩ Đức, đại diện quan trọng của phái Biểu hiện
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét