Tranh của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Đức
|
Ta ngồi bên nhau trong ánh chiều chập choạng
„ Mẹ Xíu“ (1), anh gợi chuyện, „đúng không em,
Thêm một lần em kể anh huyền thoại đẹp
về nàng công chúa tóc vàng kim?“
Từ Mẹ mất, qua những ngày nhập nhoạng
Nỗi nhớ như bà tái nhợt dẫn tôi đi,
Và huyền thoại về nàng công chúa đẹp,
Nàng tỏ tường như Mẹ Xíu khác chi.
VII
Tôi muốn, giá được quan tài nhỏ
họ làm cho tôi, thay vì một chiếc nôi
hẳn dễ chịu cho tôi hơn, hẳn đôi môi
đã từ lâu nín câm trong đêm ướt.
Thì hẳn chưa bao giờ một ý chí hoang dã
chấn rung lồng ngực sợ, đập thình thình
rồi trong thân thể nhỏ bé nín thinh,
lặng thinh vậy, như không ai nghĩ nổi.
Dường chỉ một linh hồn trẻ thoát
vút lên, cao vút tới tận trời
Gì vậy cho tôi, thay vào chiếc nôi
Sao họ không làm một quan tài nhỏ?
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
VI
Wir sassen beisammen im Dämmerlichte.
„Mütterchen“, schmeichelte ich, „nicht wahr,
du erzählst mir noch einmal die schöne Geschichte
von der Prinzessin mit goldnem Haar?“ –
Seit Mütterchen tot ist, durch dämmernde Tage
führt mich die Sehnsucht, die blasse Frau;
und von der schönen Prinzessin die Sage
weiss sie wie Mütterchen ganz genau ...
VII
Ich wollt, sie hätten statt der Wiege
mir einen kleinen Sarg gemacht,
dann wär mir besser wohl, dann schwiege
die Lippe längst in feuchter Nacht.
Dann hätte nie ein wilder Wille
die bange Brust durchzittert, – dann
wärs in dem kleinen Körper stille,
so still wie’s niemand denken kann.
Nur eine Kinderseele stiege
zum Himmel hoch so sacht, – ganz sacht ...
Was haben sie mir statt der Wiege
nicht einen kleinen Sarg gemacht? –
Chú thích của người dịch:
(1) Mẹ Xíu : - Mütterchen: - Truyện truyền kỳ số 8 trong phần phụ lục Truyện cổ tích Grimm kể về một bà già cô đơn kiện Chúa, bởi con bà và các bè bạn đều đã chết. Bà nghe thấy chuông đổ và thấy nhà thờ đầy người họ hàng nằm chết và chỗ của bà cũng bị chiếm mất. Một bà cố chỉ cho bà xem những đứa con trai, bảo nếu như chúng không chết trẻ cũng chết dấp ở giá treo, bánh xích. Bà đi về nhà, cám ơn Chúa rồi mất.
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh thuốc nước của © Emil Nolde (1867-1954): Họa sĩ Biểu hiện Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét