Tranh
© Peter Paul Rubens (1577-1640)
|
IV.
Nàng nói :
Một cây trong vườn đẹp xinh
Một trái táo treo trên tán,
Ở trên cành một con rắn
Nằm cuộn vòng, khiến cho tôi
Nhìn chăm chăm mãi chẳng thể rời
Khỏi mắt rắn ngọt ngào mơn trớn
Và rin rít mới sao rùng rợn
Và rủ rê như hạnh phúc mĩ miều.
Nàng khác nói :
Đó trái quả của cuộc đời
Hãy nếm sự ngọt ngào,
Và mi đã không vô vọng
Từng sống suốt cả cuộc đời!
Con bồ câu ngoan đạo, bé ơi
Đừng run, hãy một lần nếm thử!
Nghe tôi khuyên, và tin đi chứ
Điều gì bà cô thông thái nói ra.
V.
Tôi tấu lên những giai điệu mới
Trên cây đàn tranh mới lên dây.
Văn bản cũ. Ấy lời Salomo nói
Rằng đàn bà là giống chua cay.
Cô ả không chung tình với bạn,
Không thủy chung với đấng phu quân,
Bi thương là những giọt vang cuối
Trong chiếc cúp vàng của ái ân.
Huyền sử đó vậy là sự thực
Về lời nguyền tội lỗi tối đen,
Con rắn kia sửa soạn cho em
Đúng y chang như trong sách cũ.
Trườn trên bụng, hỏi con rắn có
Còn ngóng nghe trong mọi bụi cây.
Nay còn nếm cùng em như thuở,
Em còn ham nghe nó rít quanh đây.
Ôi, trời trở lạnh và tăm tối
Quạ nháo nhác bay quanh mặt trời
Và la lối. Tình yêu và hứng thú
Giờ chôn sâu dưới đất muôn đời.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ Hortense từ tập Neue Gedichte - Những bài thơ mới, gồm 6 đoạn đánh theo số La mã.
HORTENSE
Heinrich Heine (1797-1856)
IV.
Sie spricht:
Steht ein Baum im schönen Garten
Und ein Apfel hängt daran,
Und es ringelt sich am Aste
Eine Schlange, und ich kann
Von den süßen Schlangenaugen
Nimmer wenden meinen Blick,
Und das zischelt so verheißend,
Und das lockt wie holdes Glück!
Die andere spricht:
Dieses ist die Frucht des Lebens,
Koste ihre Süßigkeit,
Daß du nicht so ganz vergebens
Lebtest deine Lebenszeit!
Schönes Kindchen, fromme Taube,
Kost einmal und zittre nicht –
Folge meinem Rat und glaube,
Was die kluge Muhme spricht.
V.
Neue Melodieen spiel’ ich
Auf der neugestimmten Zitter.
Alt ist der Text! Es sind die Worte
Salomos: Das Weib ist bitter.
Ungetreu ist sie dem Freunde,
Wie sie treulos dem Gemahle!
Wermuth sind die letzten Tropfen
In der Liebe Goldpokale.
Also wahr ist jene Sage
Von dem dunklen Sündenfluche,
Den die Schlange dir bereitet,
Wie es steht im alten Buche?
Kriechend auf dem Bauch, die Schlange,
Lauscht sie noch in allen Büschen,
Kos’t mit dir noch jetzt wie weiland,
Und du hörst sie gerne zischen.
Ach, es wird so kalt und dunkel!
Um die Sonne flattern Raben,
Und sie krächzen. Lust und Liebe
Ist auf lange jetzt begraben.
Chú thích của người dịch:
Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.
George Sand viết về Heine:
„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."
„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand).
Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:
"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy sử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“
„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“
Lời phán xử của Salomon - Tranh của Peter Paul Rubens (1577-1640): Họa sĩ Vlandeeren.
Nàng nói :
Một cây trong vườn đẹp xinh
Một trái táo treo trên tán,
Ở trên cành một con rắn
Nằm cuộn vòng, khiến cho tôi
Nhìn chăm chăm mãi chẳng thể rời
Khỏi mắt rắn ngọt ngào mơn trớn
Và rin rít mới sao rùng rợn
Và rủ rê như hạnh phúc mĩ miều.
Nàng khác nói :
Đó trái quả của cuộc đời
Hãy nếm sự ngọt ngào,
Và mi đã không vô vọng
Từng sống suốt cả cuộc đời!
Con bồ câu ngoan đạo, bé ơi
Đừng run, hãy một lần nếm thử!
Nghe tôi khuyên, và tin đi chứ
Điều gì bà cô thông thái nói ra.
V.
Tôi tấu lên những giai điệu mới
Trên cây đàn tranh mới lên dây.
Văn bản cũ. Ấy lời Salomo nói
Rằng đàn bà là giống chua cay.
Cô ả không chung tình với bạn,
Không thủy chung với đấng phu quân,
Bi thương là những giọt vang cuối
Trong chiếc cúp vàng của ái ân.
Huyền sử đó vậy là sự thực
Về lời nguyền tội lỗi tối đen,
Con rắn kia sửa soạn cho em
Đúng y chang như trong sách cũ.
Trườn trên bụng, hỏi con rắn có
Còn ngóng nghe trong mọi bụi cây.
Nay còn nếm cùng em như thuở,
Em còn ham nghe nó rít quanh đây.
Ôi, trời trở lạnh và tăm tối
Quạ nháo nhác bay quanh mặt trời
Và la lối. Tình yêu và hứng thú
Giờ chôn sâu dưới đất muôn đời.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ Hortense từ tập Neue Gedichte - Những bài thơ mới, gồm 6 đoạn đánh theo số La mã.
HORTENSE
Heinrich Heine (1797-1856)
IV.
Sie spricht:
Steht ein Baum im schönen Garten
Und ein Apfel hängt daran,
Und es ringelt sich am Aste
Eine Schlange, und ich kann
Von den süßen Schlangenaugen
Nimmer wenden meinen Blick,
Und das zischelt so verheißend,
Und das lockt wie holdes Glück!
Die andere spricht:
Dieses ist die Frucht des Lebens,
Koste ihre Süßigkeit,
Daß du nicht so ganz vergebens
Lebtest deine Lebenszeit!
Schönes Kindchen, fromme Taube,
Kost einmal und zittre nicht –
Folge meinem Rat und glaube,
Was die kluge Muhme spricht.
V.
Neue Melodieen spiel’ ich
Auf der neugestimmten Zitter.
Alt ist der Text! Es sind die Worte
Salomos: Das Weib ist bitter.
Ungetreu ist sie dem Freunde,
Wie sie treulos dem Gemahle!
Wermuth sind die letzten Tropfen
In der Liebe Goldpokale.
Also wahr ist jene Sage
Von dem dunklen Sündenfluche,
Den die Schlange dir bereitet,
Wie es steht im alten Buche?
Kriechend auf dem Bauch, die Schlange,
Lauscht sie noch in allen Büschen,
Kos’t mit dir noch jetzt wie weiland,
Und du hörst sie gerne zischen.
Ach, es wird so kalt und dunkel!
Um die Sonne flattern Raben,
Und sie krächzen. Lust und Liebe
Ist auf lange jetzt begraben.
Chú thích của người dịch:
Heinrich Heine (1797-1856): Nhà thơ, nhà văn và nhà báo, tác gia hàng thi hào Đức, đại diện cuối cùng và là người vựợt bỏ trào lưu Lãng mạn, có thi phẩm được phổ nhạc và dịch ra tiếng nước ngòai nhiều nhất. Độc giả Việt Nam biết tới và yêu mến Heinrich Heine ngay từ tập thơ đầu tiên gồm nhiều bản dịch từ tiếng Pháp của các nhà thơ Việt Nam, có thể kể Tế Hanh, Hòang Trung Thông, Đào Xuân Quý.
George Sand viết về Heine:
„...Heine nói ra những điều rất độc địa, và những câu chuyện tiếu của ông đâm trúng tim đen. Người ta cho rằng về bản chất ông là người độc ác, nhưng không có gì sai hơn thế. Lòng dạ ông tốt, cũng như miệng lưỡi ông ấy tệ. Ông tính dịu dàng, ân cần, dâng hiến, lãng mạn trong tình yêu, vâng yếu đuối nữa và một người đàn bà có thể thoải mái thống trị ông."
„Heine sagt sehr bissige Sachen, und seine Witze treffen ins Schwarze. Man hält ihn für von Grund auf böse, aber nichts ist falscher; sein Herz ist so gut wie seine Zunge schlecht ist. Er ist zärtlich, aufmerksam, aufopfernd, in der Liebe romantisch, ja schwach, und eine Frau kann ihn unbegrenzt beherrschen.“ (George Sand).
Friedrich Nietzsche viết về Heinrich Heine:
"Heinrich Heine đã cho tôi khái niệm cao nhất về một nhà thơ trữ tình. Tôi đã hoài công kiếm tìm trong mọi vương quốc của những kỷ ngàn năm một thứ âm nhạc da diết và ngọt ngào tương tự. Ông có một sự độc địa của thánh thần, thiếu thứ đó tôi nào đâu nghĩ nổi điều hoàn hảo (...).- Và ông ấy sử dụng tiếng Đức ra sao! Sẽ có lần người ta nói, xét cho cùng Heine và tôi là những nghệ sĩ đầu tiên của tiếng Đức.“
„Den höchsten Begriff vom Lyriker hat mir Heinrich Heine gegeben. Ich suche umsonst in allen Reichen der Jahrtausende nach einer gleich süßen und leidenschaftlichen Musik. Er besaß eine göttliche Bosheit, ohne die ich mir das Vollkommene nicht zu denken vermag (…). – Und wie er das Deutsche handhabt! Man wird einmal sagen, dass Heine und ich bei weitem die ersten Artisten der deutschen Sprache gewesen sind.“
Lời phán xử của Salomon - Tranh của Peter Paul Rubens (1577-1640): Họa sĩ Vlandeeren.