trông kia: địa phận cuối cùng của lời
và cao hơn, nhưng cũng vậy nhỏ nhoi,
một trang viên cuối cùng của cảm xúc? Có hay anh nhận biết?
Thả về miền núi của con tim.
và cao hơn, nhưng cũng vậy nhỏ nhoi,
một trang viên cuối cùng của cảm xúc? Có hay anh nhận biết?
Thả về miền núi của con tim.
Nền đá ở dưới bàn tay,
Một số thứ bừng nở nơi đây, từ cú nhào âm thầm
một loài thảo mộc vô thức nẩy chồi ca hát
Nhưng còn người thức giả? Chao ôi kẻ đó đã bắt đầu nhận biết
và bây giờ nín lặng, thả về miền núi của con tim.
Kế từ đây chính thế, mang ý thức cứu rỗi,
đám thú núi này tung tăng, đám khác được bảo lưu,
hoán vị và tha thẩn. Và con chim lớn được nâng niu
bay lượn quanh sự chối từ nguyên sơ của đỉnh núi – Nhưng
chịu điều hắt hủi, ở đây trên miền núi của con tim...
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Fragment
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Ausgesetzt auf den Bergen des Herzens. Siehe, wie klein dort,
siehe: die letzte Ortschaft der Worte,
und höher, aber wie klein auch, noch ein letztes
Gehöft von Gefühl. Erkennst du's?
Ausgesetzt auf den Bergen des Herzens.
Steingrund unter den Händen.
Hier blüht wohl einiges auf; aus stummem Absturz
blüht ein unwissendes Kraut singend hervor.
Aber der Wissende? Ach, der zu wissen begann
und schweigt nun, ausgesetzt auf den Bergen des Herzens.
Da geht wohl, heilen Bewußtseins,
manches umher, manches gesicherte Bergtier,
wechselt und weilt. Und der große geborgene Vogel
kreist um der Gipfel reine Verweigerung. - Aber
ungeborgen, hier auf den Bergen des Herzens....
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Franz Marc (1880-1916): Họa sĩ Đức đại diện tiêu biểu phái Biểu hiện (Expressionism).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét