„Hãy chỉ tôi xem trên thế giới rộng dài người am tường về mây và yêu chúng hơn tôi! Hoặc chỉ cho tôi trên thế gian này thứ đồ vật đẹp hơn những đám mây! Chúng là trò chơi và niềm an ủi đôi mắt, chúng là phước lành và thiên phú Chúa Trời ban cho, chúng là cơn giận dữ và uy quyền của cái chết. Chúng có hình dạng của những hòn đảo thoát trần và hình dáng của những thiên thần ban phước. Giữa bầu trời của thiên chúa và mặt đất đáng thương chúng lơ lửng như những dụ ngôn đẹp về mọi nỗi nhớ mong của con người, thuộc về cả hai nơi như những giấc mơ của trái đất chúng nép cái linh hồn vẩn đục của chúng sát vào bầu trời tinh khiết. Chúng là hình tượng vĩnh cửu của mọi sự du hành, tìm kiếm, đòi hỏi và niềm khao khát về nhà.
Và thế đó, như chúng rụt rè và háo hức và bướng bỉnh lơ lửng giữa bầu trời và mặt đất, cũng như thế linh hồn của con người cũng rụt rè, háo hức và bướng bỉnh lửng lơ giữa thời gian và vĩnh cửu.“
Ôi mây ơi, đẹp đẽ, bồng bềnh trôi chẳng nghỉ ngơi!
Khi tôi còn là cậu bé chưa hiểu biết tôi đã yêu mây, chăm chú ngước nhìn mà không biết rồi cũng như một đám mây tôi sẽ đi qua cuộc đời: ngao du, lạ lẫm khắp nơi, lửng lơ giữa thời gian và vĩnh cửu.
( Trích từ Peter Camenzind 1904)
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Die Wolken
Hermann Hesse (1877-1962)
„Zeigt mir in der weiten Welt den Mann, der die Wolken besser kennt und mehr lieb hat als ich! Oder zeigt mir das Ding in der Welt, das schöner ist als Wolken sind! Sie sind Spiel und Augentrost, sie sind Segen und Gottesgabe, sie sind Zorn und Todesmacht. Sie haben die Formen von seligen Inseln und die Formen von segnenden Engeln. Sie schweben zwischen Gottes Himmel und der armen Erde als schöne Gleichnisse aller Menschensehnsucht, beiden angehörig – Träume der Erde, in welchen sie ihre befleckte Seele an den reinen Himmel schmiegt. Sie sind das ewige Sinnbild alles Wanderns, alles Suchens, Verlangens und Heimbegehrens.
Und so, wie sie zwischen Erde und Himmel zag und sehnend und trotzig hängen, so hängen zag und sehnend und trotzig die Seelen der Menschen zwischen Zeit und Ewigkeit.“
Oh, die Wolken, die schönen, schwebenden, rastlosen!
Ich war ein unwissendes Kind und liebte sie, schaute sie an und wußte nicht, daß auch ich als eine Wolke durchs Leben gehen würde – wandernd, überall fremd, schwebend zwischen Zeit und Ewigkeit.
(Aus: Peter Camenzind 1904)
Chú thích của người dịch:
Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói thảo nguyên) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.
Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.
Tác phẩm:
Thơ:
– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ
Văn xuôi:
- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch.
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.
- Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch.
- Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông.
- Sói thảo nguyên (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết.
- Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.
Tranh của Afred Sisley (1829-1899): Họa sĩ người Anh, đại diện quan trọng của chủ nghĩa Ấn tượng Pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét