Không tinh khiết và xô lệch là cái nhìn của ham muốn. Chỉ khi nào ta không thèm khát gì nữa, chỉ tới khi sự ngó nhìn của ta trở thành sự ngắm nhìn thuần khiết, linh hồn của sự vật mới mở phơi: cái đẹp.
Nếu tôi nhìn một cánh rừng tôi mua, tôi thuê, tôi đốn gỗ tôi đi săn trong đó, cánh rừng tôi gán cho quyền thế nợ, thì tôi không nhìn thấy rừng mà chỉ thấy mối quan hệ của nó với ham muốn, với những kế hoạch, những nỗi lo và túi tiền của tôi. Sau đó rừng mới bao gồm cây gỗ, xanh hay già, khỏe mạnh hay héo hắt.
Nhưng tôi không muốn gì của nó, không vấn vương ý nghĩ tôi chỉ nhìn vào bề sâu xanh lá, thì rồi nó chính là rừng, là tự nhiên và cỏ cây, đẹp đẽ.
Cũng đúng như vậy với con người và những gương mặt của họ. Con người tôi đăm đăm nhìn với sự sợ hãi, hy vọng, thèm khát, với những ý định và đòi hỏi không phải là người, hắn chỉ là một tấm gương mờ của ham muốn lòng ta.
Hiểu biết hoặc vô ý thức tôi đưa mắt nhìn hắn với những câu hỏi to tát bó hẹp bề, sai lệch. Hắn dễ gần hay kiêu hãnh?
Hắn chú trọng tôi?
Người ta có thể vay mượn hắn?
Hắn có hiểu chút gì vê nghệ thuật?
Với hàng ngàn câu hỏi như thế chúng ta nhìn phần lớn mọi người ta dính dáng tới họ…
Trong cái khoảnh khắc khi ham muốn thôi còn và ngắm nhìn xuất hiện, nhìn thuần túy thành sự dâng hiến, tất cả thành ra khác.
Con người thôi đắc dụng hoặc nguy hiểm, chú tâm hay buồn tẻ, từ tâm hay thô bạo, mạnh mẽ hay yếu đuối.
Hắn ta trở thành Tự nhiên và lạ lùng như mỗi đồ vật để sự ngắm nhìn thuần khiết hướng vào. Bởi ngắm nhìn, vâng thế đó, không là dò xét hay phê phán, ngắm nhìn chẳng là gì khác hơn là tình yêu.
Ngắm nhìn là tình trạng tối cao và đáng kỳ vọng nhất của tâm hồn ta: tình yêu không dục vọng.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
VON DER SEELE
Hermann Hesse (1877-1962)
Unrein und verzerrend ist der Blick des Wollens. Erst wo wir nichts begehren, erst wo unser Schauen reine Betrachtung wird, tut sich die Seele der Dinge auf, die Schönheit.
Wenn ich einen Wald beschaue, den ich kaufen, den ich pachten, den ich abholzen, in dem ich jagen, den ich mit einer Hypothek belasten will, dann sehe ich nicht den Wald, sondern nur seine Beziehungen zu meinem Wollen, zu meinen Plänen und Sorgen, zu meinem Geldbeutel. Dann besteht er aus Holz, ist jung oder alt, gesund oder krank.
Will ich aber nichts von ihm, blicke ich nur gedankenlos in seine grüne Tiefe, dann erst ist er Wald, ist Natur und Gewächs, ist schön.
So ist es mit den Menschen und ihren Gesichtern auch. Der Mensch, den ich mit Furcht, mit Hoffnung, mit Begehrlichkeit, mit Absichten mit Forderungen ansehe, ist nicht Mensch, er ist nur ein trüber Spiegel meines Wollens.
Ich blicke ihn wissend oder unbewusst mit lauter beengenden fälschenden Fragen an. Ist er zugänglich oder stolz?
Achtet er mich?
Kann man ihn anpumpen?
Versteht er etwas von Kunst?
Mit tausend solchen Fragen sehen wir die meisten Menschen an, mit denen wir zu tun haben….
Im Augenblick wo das Wollen ruht und die Betrachtung aufkommt, das reine Sehen und Hingegeben sein, wird alles anders.
Der Mensch hört auf nützlich oder gefährlich zu sein, interessiert oder langweilig, gütig oder roh, stark oder schwach.
Er wird Natur, er wird schön und merkwürdig wie jedes Ding, auf das reine Betrachtung sich richtet. Denn Betrachtung ist ja nicht Forschung oder Kritik, sie ist nichts als Liebe.
Sie ist der höchste und wünschenswerteste Zustand unserer Seele: begierdelose Liebe.
Chú thích của người dịch:
Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói thảo nguyên) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.
Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.
Tác phẩm:
Thơ:
– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ
Văn xuôi:
- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch.
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.
- Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch.
- Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông.
- Sói thảo nguyên (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết.
- Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.
Tranh thuốc nước của Hermann Hesse.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét