Rainer Maria Rilke (1875-1926) XXI
Thư thoảng tôi: sau buồn rầu và gắng gượng
Số phận còn muốn ban phước cho tôi,
nếu vào sớm chủ nhật mai trang trọng
gặp mặt nhiều cô gái tươi cười…
Tôi thích nghe tiếng họ cười khúc khích.
Rồi tiếng họ cười trong tai vẳng triền miên
Xin nhắc, không bao giờ tôi có thể quên
Nếu ngày nhật khuất chìm dần sau dốc
Tôi muốn hát cho riêng tôi … Là lúc
ở trên cao tinh tú đã hát ca…
XXII
Chuyện dài lâu, - câu chuyện từ lâu
Khi nào? Không bao giờ tôi còn biết nói đâu…
Một tiếng chuông ngân, một con họa mi hát,-
và một trái tim đập sao thắm thiết.
Trời chói chang trên dốc rừng thông,
Tử đinh hương đã trĩu những chùm bông,-
Và một cô gái mặc xiêm ngày chúa nhật, thanh thoát
bao câu hỏi đầy ngạc nhiên trong đôi mắt
Chuyện dài lâu,- câu chuyện từ lâu…
(Hết)
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:
Lieben
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XXI
Manchmal da ist mir: Nach Gram und Müh
will mich das Schicksal noch segnen,
wenn mir in feiernder Sonntagsfrüh
lachende Mädchen begegnen ...
Lächeln hör ich sie gerne.
Lange dann liegt mir das Lachen im Ohr,
nie kann ich's, wähn ich, vergessen ...
Wenn sich der Tag hinterm Hange verlor,
will ich mir's singen ... Indessen
singens schon oben die Sterne ...
XXII
Es ist lang, - es ist lang ...
wann - weiss ich gar nimmer zu sagen ...
eine Glocke klang, eine Lerche sang -
und ein Herz hat so selig geschlagen.
Der Himmel so blank überm Jungwaldhang,
der Flieder hat Blüten getragen, -
und im Sonntagskleide ein Mädchen, schlank,
das Auge voll staundender Fragen ...
Es ist lang, - es ist lang ...
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Julie Wolfthorn (1864-1944): Nữ họa sĩ Đức, gương mặt nổi bật của phái Hiện đại. Bà mất trong trại tập trung. Trừ các tác phẩm còn lại trong bảo tàng, tác phẩm đồ sộ của bà một thời gian dài bị coi như mất tích. Năm 2000, khi nhiều tranh được tìm thấy , nữ họa sĩ được phát hiện lại và trả về vị trí cao trọng trong nền nghệ thuật tạo hình của Đức.