Em là thế, như thể em phải ban phước
cho kẻ Đức Bà lâu đã lãng quên;
Và mùa hạ, thường khi, nếu em biết:
có em về từ những ngách phố đêm
sao sáng sủa, khi em hôn các đứa bé,
ngồi rầu rĩ bên rặng rào quạnh quẽ.
Và từ những cánh đồng cỏ im lặng
từng nhịp điệu ẩn mật vút cao,
vẻ như quấn quýt em mật thiết
cho tới khi mọi nhún nhẩy, vẫy chào
chỉ ở trong em, không một nơi nào khác.
và chợt với anh: thế giới hồ biến mất-
còn khúc hát cuối cùng của vạn vật,
di tặng của chúng, em mang tới trao anh.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức (còn sửa)
Du bist, als ob du...
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Du bist, als ob du segnen müßtest �
wen die Madonnen längst vergaßen; �
und oft, im Sommer, wenn du wüßtest: �
da kamst du von den Abendstraßen �
so klar, als ob du Kinder küßtest, �
die traurig wo am Saume saßen.��
Und jeder Rhythmus, der verschwiegen �
aus stillen Wiesen aufgestiegen,
schien innig sich dir anzuschmiegen,�
bis alles Winken, alles Wiegen
nur in dir war und nirgends mehr. �
Und mir geschah: die Welt verginge –
und das Vermächtnis aller Dinge,
ihr letztes Lied, bringst du mir her.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Lotte Laserstein (1898-1993): Nữ họa sĩ Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét