Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Cuộc chiến hàng ngày chống lại sự làm thinh

Hans-Peter Kunisch

Vì một bài phỏng vấn Imre Kertesz bị phê phán dữ dội ở Hungary. Mà thế quan hệ căng thẳng giữa ông và tổ quốc quê hương ông có căn nguyên sâu xa về trước.


Tranh László Moholy-Nagy (1895-1946), họa sĩ Hungary

Nhà văn Hungary mang giải thưởng Nobel Imre Kertérz, người từ chín năm nay sống chủ yếu tại Berlin, phản ứng lại sự phê phán tại quê nhà về cuộc trả lời phỏng vấn của ông dành cho tờ nhật báo Thế giới tiến hành vào ngày 07.11. Khi trình bày lại người ta đã „cắt xén“ hoặc đã „xuyên tạc“ hàm ý của ông, ông kể lại trên tờ Welt-Online. Từ câu nói“ những di sản cũ nặng nề của Hungary, sự man trá và khuynh hướng rũ bỏ đang hồi sinh hơn bao giờ hết“ người ta đã biến thành câu“ Hungary là một đất nước của những kẻ dối lừa“. Câu „ Những kẻ Cực hữu và Bài Do thái đang cầm chịch“ biến thành „ Những kẻ Cực hữu và Bài Do thái ngự trị trên đất nước Hungary“.

Quả nhiên đó là những sự xuyên tạc và cắt xén thô lỗ, dựa vào đó những tờ nhật báo như Magyar Hrlap, Magyar Nemzet hoặc là tuần san 168 ORA bồi đắp sự phê phán lời phê bình đất nước Hungary của Kertesz. Thế đấy có một sự phê phán ấy, điều này không thể phủ nhận được. Từ đâu ra, sự phê phán ấy đứng trước bối cảnh nào.

Lời Kertész trách cứ một chủ nghĩa Cực hữu và Bài Do thái đang lớn mạnh dễ hiểu hơn, nếu như ta biết rằng đảng „Jobbik“ xuất hiện đầy vẻ cực hữu và ngang nhiên bài Do thái ngày càng mạnh mẽ. Tại cuộc bầu cử nghị viện châu Âu vào tháng Sáu, đảng này giành suýt soát 15% và Liên minh đảng Fidesz và KDNP phái hữu bảo thủ chiếm được 56,37 số phiếu, đã qua mặt đảng con đang cầm quyền MszP khi đảng này chỉ đạt có 17,38 % phiếu bầu.

Tuy nhiên mối căng thẳng giữa Kertész và Hungary đã có căn nguyên từ xa về trước. Người ta có thể đọc rõ điều này trong „Thư gửi Eva Haldimann“, trao đổi thư từ giữa Kertész và nhà phê bình và nữ dịch giả người Hungary-Thụy sĩ, được nhà sách Rowohlt xuất bản vào tháng Chín bằng tiếng Đức. Haldimann là người đầu tiên vinh danh Kertész và „Tiểu thuyết một người không số phận“ bên ngoài biên giới Hungary. Trong những bài bàn thảo tổng quan về văn học tiếng Hung cho tờ báo Neue Zürcher Zeitung bà luôn luôn nhắc tới lời ông: „... Có lẽ bà không thể cảm thấy được, sự quan tâm khích lệ một tinh thần độc lập trong cuộc chiến hàng ngày của tôi chống lại sự làm thinh đối với tôi là một món quà quí hiếm thế nào đâu“, Kertész đã viết cho bà vào ngày 14.12.1977 và ngay từ dạo đó và như vậy đã liên hệ tới sự giấu diếm lịch sử Hungary ngay trên đất nước mình luôn được ông không ngừng khêu gợi, giờ đây ông lại nhắc lại trong một cuộc phỏng vấn do báo Thế giới tiến hành: „Hungary trong chiến tranh, Hungary và chủ nghĩa phát xít, Hungary và chủ nghĩa xã hội, không có gì được xử lý, tất cả được đắp điếm với trò tô điểm.“

Đặc biệt thú vị là cả thư ký hội nhà văn László L. Simon cũng lên tiếng về những lời trách cứ mới đây của Kertész và ngụ ý rằng, Kertész „bôi bác“ đất nước ông „trường kỳ“. Cũng chính với Hội nhà văn, Kertesz đã có những vấn đề lớn. Khi một ủy viên ban chấp hành mang đầu óc dân tộc lập ra một danh sách những người Do thái tại Hung không hòa quyện với Bản tính Hung, vào ngày 25.09.1990, đi trước bởi một bức thư ngỏ, Kertész đã ra khỏi Hội nhà văn. Ông đã luôn sống“ như một cá thể“, ông đã không có cái gọi là vấn đề bản ngã“, nhưng ông không cho phép người ta „ly gián tôi khỏi những phong cảnh và cánh rừng, những vũng vịnh và những đỉnh non, từ đó tôi nhìn ra chân trời xa, vượt trên đầu những kẻ phân biệt chủng tộc hẹp dạ.“

Mặc dù vậy, dạo đó Kertész đã nghĩ tới chuyện giã từ. Nhưng mà „người ta có thể lưu vong đi đâu nhỉ“, vào ngày 27.05.1992 ông viết từ vùng Feldafing gần Muy-nich, nơi ông theo suất học bổng.“ Tạm thời tới chốn đó, cũng chính nơi tôi cho đến nay cũng cư trú đến giờ, tức là vào trong cũi của riêng mình.“ Tám năm sau ông đi sang Berlin.

Một vấn nạn thời thế của Hungary cũng giống như tại các nước Đông và Trung Âu là sau năm 1989 những vấn đề và định kiến nội tại vốn bị nhà nước vùi vào quên lãng trong thời chủ nghĩa cộng sản thống trị bất chợt đã nổi lên bề mặt nhưng được bàn luận thiếu hẳn ý thức lịch sử. Nếu như bây giờ Kertész nói rằng, ông ấy nhìn nhận mình chắng là người Hung cũng như chẳng phải là người Do thái, mà là một cá thể, và kế đó tự cho mình là „mất gốc“, thì tờ Magyar Hrlap phản pháo lại bằng câu „Kertész không có cội nguồn“, là thứ đánh lận mất quá trình lịch sử của một sự mất gốc và đó là một mật ngữ thông dụng với những kẻ bài Do thái nhằm kỳ thị các trí thức người Do thái.

Thế mà ta biết từ ngày mở toang tấm màn sắt đã 20 năm trôi qua. Tại sao vẫn không phát triển một văn hóa khoan dung trong phê phán? Tại sao ý kiến tỏ ra quả cảm, nếu như trên tờ nhật báo Népszabadsàg nhà phê bình văn hóa Sándor Radnóti, trước những lời eo xèo mới đây đòi hỏi rằng, kết cục rồi công luận Hungary phải đi xa tới mức „tôn vinh xứng đáng những tầm vóc của bản địa bày tỏ ý kiến về tổ quốc một cách bác bỏ hoặc là mỉa mai“. Thiếu đi một khả năng chế nhạo, với những lời bày tỏ của mình Kertész đã giải thích những vấn đề người ta đang vướng mắc ở Hungary. Kể cả hứng thú khiêu khích hoặc sự tự sỉ vả mang tính quốc gia cũng thiếu nốt. Bộ phận lớn nhân dân không biết tới Thomas Mann, Karl Kraus, Thomas Bernhard. Thị dân, tầng lớp cho phép phê phán mình, đã „bị đốn mất“ tại Hungary trong thời chủ nghĩa cộng sản.

©Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức


Nguồn: ZEIT ONLINE

Tranh László Moholy-Nagy (1895-1946): Họa sĩ, nhiếp ảnh gia người Hung, giảng viên Bauhaus từ 1923-1929

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015

Những khúc kinh cầu cho người hôn phu đã chết

Nelly Sachs (1891-1970)   




Cây nến, tôi đã thắp cho anh,
Nói lời chấn động bằng không khí của ngôn ngữ lửa,
Và từ mắt nước nhỏ ra; từ nấm mộ,
Cát bụi anh nghe gọi tới trường sinh.

Ôi điểm gặp cao trọng trong căn phòng nghèo.
Giá tôi biết, các nguyên tố nói điều gì nghĩa lý;
Chúng ám chỉ anh, vì tất cả luôn hướng anh ám chỉ
Tôi chẳng làm được gì, hơn khóc mà thôi.

© Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức

Gebete für den toten Bräutigam

Nelly Sachs (1891-1970)

Die Kerze, die ich für dich entzündet habe,
Spricht mit der Luft der Flammensprache Beben,
Und Wasser tropft vom Auge; aus dem Grabe
Dein Staub vernehmlich ruft zum ewgen Leben.

O hoher Treffpunkt in der Armut Zimmer.
Wenn ich nur wüßte, was die Elemente meinen;
Sie deuten dich, denn alles deutet immer
Auf dich; ich kann nichts tun als weinen.

Chú thích của người dịch:

Bài thơ trên mở đầu cho 10 bài thơ của chùm „Những khúc kinh cầu cho người hôn phu đã chết“, trên nền cát bụi của các nguyên tố nước, lửa, không khí và đất.

Nelly Sachs: (tên khai sinh Leonie Sachs, sinh năm 1891 tại Berlin – mất 1970 tại Stockholm): Nữ thi sĩ và nhà văn Đức (gốc Do thái, sau bà mang quốc tịch Thụy điển). Năm 1966 Hội đồng Nobel Hòang gia Thụy điển trao giải Nobel văn chương cho bà (cùng nhận với Samuel Joseph Agnon) vì“ những tác phẩm thơ và kịch tuyệt vời phu diễn số phận Israel với một bút pháp mạnh mẽ lôi cuốn.“

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2015

Tường trắng

Tạp chí Spiegel
Guernica, tranh của Pablo Picasso ( 1881-1973)

„Trong vết rận cắn, trái tim bò đực, mồm gã phun đầy lời băm thịt“- Họa sĩ nhìn nguyên mẫu của mình như thế. Mười tám tranh khắc kẽm, kèm những câu thơ khinh bỉ, dạo đó đã phô bày „Mộng mị và Dối lừa của Franco“.

Ba thập kỷ kế đó, Đại nguyên soái bị bỉ báng Francisco Franco Bahamonde (1) cố công dử nghệ sĩ sinh tại Malaga về quê hương Tây Ban Nha.

Thứ Tư tuần trước nữa, 3 ngày trước sinh nhật lần 88 của Picasso, Florentino Pérez Embid, tổng giám đốc phòng nghệ thuật tạo hình của Bộ giáo dục Tây Ban Nha đã được phép tuyên bố trước báo giới: „Về phía chính phủ cũng như về phía người đứng đầu chính phủ không còn bất cứ một điều gì phản đối nhà họa sĩ nổi tiếng nữa“.

Lý do của sự bày tỏ thiện chí cao nhất: Thể chế muốn mua tác phẩm bậc thầy vĩ đại nhất của Picasso - Pérez Embid nói – đó là bức Guernica sáng tác trong nội chiến Tây Ban Nha. Bức họa là báu vật của Viện bảo tàng Nghệ thuật đương đại hình thành trên khu Trường Đại học Tổng hợp Madrid.

Và đó, mặc dù tác phẩm bậc thầy của Picasso, như tờ Guardian London nêu, là „phản kháng chống lại chủ nghĩa phát xít và chống lại tất cả những gì hiện thân cho tướng Franco“.

Năm 1937 được sự ủy nhiệm của chính phủ cộng hòa Tây Ban Nha, Picasso đã vẽ bức tranh tường lớn khổ 3,51 m x 7,82 m, ngay sau khi máy bay tiêm kích Đức ném bom và hủy diệt Guernica- thủ phủ cũ của Basken.

Họa sĩ của Guernica đã rời sang Pháp. Coi như quà xú-vơ-nia (souvenir), ông đã tặng cho quân lính Đức ít lâu sau sang thăm ông ở Paris những bưu thiếp vẽ về cuộc ném bom.

Picasso cất bức tranh nguyên tác trong viện bảo tàng Nghệ thuật hiện đại New York. Trở thành người cộng sản vào năm 1944, „bởi vì những người cộng sản ở Liên Xô và tại quê hương Tây Ban Nha của tôi là những người quả cảm nhất“ ông thề không bao giờ trở về quê hương, chừng nào Franco trị vì.

Và ông ở lại nước ngoài – cũng tương tự như vậy hầu như tất cả các nhà nghệ sĩ và trí thức quan trọng Tây Ban Nha bị đẩy vào thế đối kháng trong suốt cuộc nội chiến.

* Danh cầm xenlô Pablo Casals, lui về vùng Prades của xứ Pyrenäen, xa lánh quê hương cho tới cuộc thăm quê chóng vánh nhân một dịp tang lễ nào đó vào năm 1955.

* Nhà thơ Juan Ramón Jiménez, 1936 sang Cuba và sau này lưu vong sang Puerto Rico, 1956 nhận giải thưởng Nobel văn chương và 1958 chết trong tỵ nạn, không bao giờ hòa giải với Franco.

* Nhà văn và nhà sử học Salvador de Madariaga, từ 1936 tỵ nạn sang Anh, phản kháng bằng cách từ bỏ mọi chức vị do Unisco phong cho, khi Tây Ban Nha được kết nạp vào Liên hiệp quốc vào năm 1952.

Nhiều năm trời, tranh của Picasso không được trưng bày tại Tây Ban Nha, thậm chí tên của ông cũng không được in trên báo. Mãi tới đầu những năm 60, thời của bùng nổ du lịch và tự do hóa kinh tế, những người quyền thế của Tây Ban Nha mới hồi tâm nghĩ tới tác động quảng cáo của cái tên Picasso.

1961 Tây Ban Nha của Franco mở cuộc triển lãm Picasso đầu tiên. Ít lâu sau, tại Barcelona - đô thị xứ Katalanen-, nơi họa sĩ vùng Andulasien thời còn trai trẻ đã sống một vài năm, bảo tàng Picasso được xây dựng trong một lâu đài kiến trúc gothic.

Năm ngoái, khi nghệ sĩ lưu vong tặng lại cho bảo tàng Barcelona bộ sưu tập gồm 59 bức tranh, tờ nhật báo La Vanguardia lớn nhất của Barcelona đã đòi hỏi, cuối cùng đã đến lúc bức tranh Guernica nổi tiếng nhất của Picasso, „biểu tượng của thiên tài Tây Ban Nha“ phải được đưa về Tây Ban Nha.

Mãi rồi mùa hè năm ngoái Luis González Robles, giám đốc của Viện bảo tàng tranh Nghệ thuật đương đại đang còn trong giai đoạn xây cất ở Madrid, đã hứa: „ Chúng tôi sẽ để trống một bức tường cho một bức tranh của người nghệ sĩ chúng tôi coi là nhà họa sĩ vĩ đại nhất của Tây Ban Nha còn đang sống“. Giám đốc viện bảo tàng còn dụ thêm: “ Ông ấy có thể vẽ cái ông muốn. Chúng tôi không áp đặt ông những ràng buộc nào cả.“

Mà vậy rồi người đàn ông vẽ từ bảy thập kỷ nay, những gì ông muốn, có vẻ không hào hứng đối với lời mời chào đó. Ông ở lại Pháp. Và cho đến bây giờ ông ấy không có phản ứng gì đối với nỗ lực liên hệ mới đây nhất của chính phủ Tây Ban Nha.

Tuy nhiên nhà thương lượng Pérez Embid lạc quan. „Vẫn trong quá trình thương lượng“, người này tuyên bố như vậy ở Madrid.

© Phạm Kỳ Đăng dịch
Nguồn: Leere Wand – Spiegel 03.01.1969

(1) Francisco Franco: Francisco Paulino Hermenegildo Teódulo Franco y Bahamonde (1892-1975) Nhà độc tài, trùm phát xít Tây Ban Nha.

Guernica, tranh của Pablo Picasso ( 1881-1973)

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Tận thế

Else Lasker-Schüler (1869 -1945)


Tirol - tranh sơn dầu của © Franz Marc (1880-1916), họa sĩ Biểu hiện Đức

Rồi cuộc khóc trên trần thế
cứ như Thượng đế từ trần,
và bóng nặng chì ập xuống
đè như nấm mộ cõi âm.

Nào! Sát nhau ta ẩn tránh.
Trong tim tất cả mọi người: cuộc đời kín bưng nằm đó
ẩn như trong cỗ quan tài.

Nào mình hôn nhau khắn khít!
Anh ơi, dồn dập tiếng vang: - Ta phải chết vì nỗi nhớ,
Gõ vào cánh cửa trần gian.

© Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức

Weltende

Else Lasker-Schüler (1869 -1945)

Es ist ein Weinen in der Welt,
als ob der liebe Gott gestorben wär,
und der bleierne Schatten, der niederfällt,
lastet grabesschwer.

Komm, wir wollen uns näher verbergen...
Das Leben liegt in aller Herzen
wie in Särgen.

Du! Wir wollen uns tief küssen -
Es pocht eine Sehnsucht an die Welt,
An der wir sterben müssen.

Chú thích của người dịch:

Else Lasker-Schüler (tên khai sinh Elisabeth Lasker-Schüler; * sinh ngày 11.02 1869 tại Elberfeld, nay là Wuppertal; † 22. 01 1945 tại Jerusalem), nữ thi sĩ quan trọng người Đức gốc Do thái, đại diện kiệt xuất của trường phái Hiện đại tiền phong và của Chủ nghĩa Biểu hiện trong văn chương.

Tranh: Tirol - Sơn dầu của Franz Marc họa sĩ biểu hiện Đức, bạn của nữ thi sĩ.

Else Lasker-Schüler

Thứ Tư, 13 tháng 5, 2015

Con cưng của thần thánh

Marcel Reich-Ranicki

Tranh của ©Michelangelo Buonarroti (1475-1564) họa sĩ, điêu khắc- kiến trúc gia người Ý

Tôi yêu bài thơ này, mười tám chữ. Ở đây tôi đã chết lịm người. Có thực là 18 chữ hay có thể chỉ là 17 chữ? Bản thân Goethe- hầu như người ta không thể tin được - không xem trọng 4 câu thơ này. Năm 1777 ông đã ghi vào trong một bức thư gửi nữ bá tước vùng Stolberg, một quí bà còn khá trẻ ông chưa gặp mặt bao giờ nhưng khẩn thiết cần bà với tư cách người tâm giao chia sẻ, là người đứng địa chỉ cho những cuộc độc thoại của ông. Chưa bao giờ ông thu nạp bài thơ ngắn vào trong một tập thơ xuất bản thành sách của mình.

Mặc dầu thế chẳng mấy chốc bài thơ này được công bố. Anh trai của người nữ nhận thư, bá tước Friedrich Leopold zu Stolberg, đã trích dẫn bài thơ này trong một bài viết đăng trên tạp chí „Deutsches Museum“ (Bảo tàng Đức). Ở đây ban đầu câu thơ nguyên là: “ Các thần thánh, trùng trùng vô tận...“. Cứ như thế trải qua hàng trăm năm, bài thơ được in trong các ấn phẩm về Goethe.

Vậy mà trong một bức thư gửi nữ bá tước vùng Stolberg (1), hiển nhiên không được một người biên soạn nào quan tâm tới, bài thơ bắt đầu khác như vậy: „ Nhiều thần thánh, trùng trùng vô tận, đã ban cho....“. Là thế nào bây giờ: „ ban cho“ hay „ đã ban cho“; „các thánh thần“ hay „ nhiều thần thánh“ và như vậy mười bảy chữ hay mười tám chữ? Liệu rằng bá tước Stolberg những dám chỉnh lý lại câu thơ của Goethe hay chăng? Tôi không tin vào điều đó. Nếu sự việc mà như vậy, thì hẳn tác giả, người thành nếp quen đọc tờ „ Deutsches Museum“, đã dị nghị điều này ngay lập tức. Có lẽ dễ chấp nhận hơn giả định bản mới này bắt nguồn từ chính Goethe. Nhưng giả sử nếu bá tước Stolberg gợi ý hai thay đổi này hoặc là tự sửa ra như vậy, hẳn Goethe đã đồng lòng hoặc im lặng làm ngơ, hoặc biểu lộ sự đồng ý trong một bức thư đã mất, tôi dám khá chắc chắn điều này.

Trong mọi lẽ, sự khác biệt giữa hai bản không hề ít ỏi. Sự thêm thắt vào quán từ „die“ cũng cấp cho câu thơ đầu tiên ngữ điệu đều nhịp của ba câu thơ còn lại. Tôi không tin rằng ban đầu Goethe muốn phá ngữ điệu này. Và với động từ ở thể quá khứ ông đã muốn biểu đạt một kinh nghiệm nói chung hoặc là một nhận thức mang tính lịch sử: ông khẳng định, thời xưa kia là thế. Nhưng câu thơ đầu tiên được viết là „ban cho“, thì bài thơ hàm ý một hoàn cảnh hiện tại và (có thể rằng) một kinh nghiệm riêng tư.

Để tránh hiểu lầm, trong một bức thư gửi nữ bá tước vùng Stolzenberg, Goethe đã viết về „ sự bất an của cuộc đời“ (ý ông nói, của chính cuộc đời ông), cho 4 câu thơ nối vào đó và ngay lập tức bổ sung:“ Gần đây, tôi đã ca lên như vậy, khi tôi, sâu trong một đêm trăng rạng rỡ, bước ra khỏi dòng sông chảy trước vườn nhà; và điều này ngày lại ngày ở nơi tôi tỏ ra chí lý “. Trước đó trong một bức thư viết trước đó khá lâu gửi cho mẹ, ông đã biểu lộ về sự đồng thời của những niềm hân hoan khác thường và những nỗi đớn đau khác thường trong cuộc tồn sinh của mình: chính cái chết của người em gái Cornelia (mất vào ngày 08.06.1977) chỉ lại „càng gây đau đớn hơn thêm“, khi bất chợt đến với ông „trong thời gian sao mà hạnh phúc“.

Chúng ta có được phép hiểu bài thơ ngắn của Goethe như một đánh giá đặc điểm về bản thân không?. Hẳn là thế, nhưng khi nào Goethe luôn nói về bản thân mình, ông cũng nói về những người khác. Ông biết quá đi chứ, ông thuộc về những đứa con cưng của thánh thần, ông không chỉ nói điều này trong câu thơ bốn dòng, mà còn nói lên điều này trong nhiều dịp khác nhau, cũng như vậy vào lúc sắp kết thúc Bi ca, chúng ta gọi là Bi ca Marienbad (2) ông viết sau này. Mà vậy đấy, Goethe dùng từ này ám chỉ người nghệ sĩ, những nhà thơ: Họ là những con cưng của thần thánh, bởi chưng họ được ưu ái bởi năng lực, nghiệm trải hạnh phúc và cảm nhận khổ đau, ở cấp độ cao hơn.

Đã đành là với khả năng đó chúng ta mới riêng có một tiền đề cho sự sinh tồn nghệ sĩ văn chương. Tiền đề này, để hiện thành một thực thể, còn cần một khả năng khác nữa: Nếu như con người ta câm nín trong nổi khổ đau của mình, thì chính anh, nhà thơ được trao thiên chức nói lên con người ta đau khổ như thế nào và những gì làm cho đau khổ. Được ban cho ân huệ và ơn phước với tất cả niềm hân hoan, vô bến bờ, và bị vùi dập và dầy vò với mọi nỗi khổ đau, vô bờ bến, Goethe đã trở thành người tổng quản tài sản của những người hạnh phúc và khổ đau, của những người đang yêu và đang say mộng tình yêu. Hay thế cũng nên: nhà thơ của tình yêu.

1999

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Nguồn: Ein Jüngling liebt ein Mädchen (Một chàng trai yêu một cô gái) – Marcel Reich-Ranicki; Insel Verlag Frankfurt am Main und Leipzig 2001, ISBN 3-458-06655-I

Có thể xem bài này ở mục Frankfurter Anthologie (Hợp tuyển Frankfurt) trên trang Frankfurter Allgemeine Zeitung, với một phụ đề phân đoạn.

Thánh thần ban cho tất cả

Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832)

Các thần thánh, trùng trùng vô tận 

Ban cho con cưng của họ tất cả, vẹn toàn, 
Vô bến bờ tất cả mọi hân hoan,
Mọi khổ đau, vô bến bờ, toàn vẹn.

© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức


Alles geben die Götter 


Alles geben die Götter, die unendlichen, 
Ihren Lieblingen ganz,
Alle Freuden, die unendlichen,
Alle Schmerzen, die unendlichen, ganz.

Chú thích của người dịch:

Marcel Reich-Ranicki (1920-2013): Nhà phê bình được vinh danh Giáo hòang văn học, nhà trước tác có ảnh hưởng lớn nhất đương đại trong khu vực nói tiếng Đức.

Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832): Thi hào Đức cùng với Friedrich Schiller trở thành đại diện quan trọng nhất của trào lưu Cổ điển Weimar, có nhiều tác phẩm thuộc về đỉnh cao của văn chương thế giới trong sự nghiệp đồ sộ trải rộng trên nhiều lĩnh vực thơ, văn xuôi, kịch, nghiên cứu khoa học tự nhiên, họat động chính trị.

(1) Nữ bá tước Gräfin Augusta Louise zu Stolberg (1753-1835) : Sau khi đọc Nỗi đau của chàng Werther và thường xuyên trao đổi thư từ với Goethe từ 1775 tới 1782, bà đi vào lịch sử văn học với tên Gustchen của Goethe.

(2) Bi ca Marienbad hoàn thành năm 1827, kết thúc chùm ba bài thơ tình, viết sau khi Goethe vào năm 1823, năm ấy 72 tuổi, mù quáng trước tình yêu, đã ngỏ lời cầu hôn với Ulrike von Levetzow vừa tròn 18, và bị nàng khéo léo chối từ. Bài thơ tình là một khúc than van của người „ Xưa kia tôi vốn con cưng của thánh thần - Der ich noch erst den Göttern Liebling war“. Nghiệm trải đau khổ này cũng là kinh nghiệm tình ái cuối cùng của Goethe đánh dấu sự từ biệt của ông với tình yêu. Sự biến mất khả năng yêu đương, được Goethe đưa lên hàng ngang bằng tôn giáo, khiến nhà thơ coi như cái chết cận kề.

Bài đăng VHNA

Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015

Dưới rặng tiêu huyền

Phạm Kỳ Đăng

Tranh của © Emil Nolde (1867-1956) họa sĩ Biểu hiện Đức

Rặng hoa trải lòng ánh sáng
Khuyên môi son dấu khát đời
Nhớ người trong màu áo trắng
Trên đường hửng nắng như môi

Vừa hôn lá reo lấp láy
Nắng vàng lọc cánh thủy tiên
Thiết tha chiều màu lửa cháy
Vàng thau dưới rặng tiêu huyền

Dần trong sương ngưng màu sữa
Đọng vầng dương ối gần xa
Một bông anh túc quyện đỏ
Say mơ trong bóng chiều tà.

©PKĐ 2014

Tranh: Hoa Anh Túc, thuốc nước - Emil Nolde (1867-1956), họa sĩ thuộc Chủ nghĩa Biểu hiện (Expressionism) Đức.

Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015

Hòa giải và Hòa hợp với Dân tộc

Phạm Kỳ Đăng

Tranh sơn mài của © Nguyễn Gia Trí (1908-1993)

Tôi đã nghe nhiều cái điều an ủi, rằng lòng người mỗi ngày một ly tán, Việt Nam phải chờ đến thế hệ thứ tư thứ năm nữa, mới có thể thực hiện được hòa giải và hòa hợp.

Xung quanh câu chuyện hòa hợp hòa giải, nội dung và trình tự thực hiện từng bước đã có bấy nhiêu gợi ý, suy tư sâu sắc. Những ý kiến đó, được đông đảo mọi thành phần nêu lên, tuy nhiên đều từ phía người bị trị, và có nghĩa là của nạn nhân.

Người gây ra oán cừu, chia rẽ cứ cho là thành tâm hòa giải, phải từ bỏ vị trí ngất ngưởng bề trên, quỳ xuống thể hiện một lòng sám hối. Về mặt biểu tượng, tôi nghĩ đến hình ảnh Thủ tướng Đức Willi Brandt, trước tượng đài tưởng niệm những người anh hùng của ghetto ở Warsaw vào ngày 07.12. 1970, thay vì đứng cúi đầu mặc niệm sau lúc đặt vòng hoa, ông đã đã sụp quì thống hối trước các tội ác do người Đức gây ra trong Thế chiến II. Cử chỉ được cho là tự hạ nhục của vị thủ tướng đã được thế giới ghi nhận là sự khẩn cầu xin tha thứ, tạo được sự tin cậy vào chính sách phía Đông của CHLB Đức.

Nếu các nhà chính khách Việt Nam có chút thành tâm, họ hãy nghỉ đến sự thống hối và tri ân với nạn nhân của họ.

Sự thống hối chứng trước toàn thể các nạn nhân trên hai miền do một đường lối sai trái gây ra: người bị quy diệt thuộc thành phần trí, phú, địa, hào; người khác đảng phái; người bất đồng chính kiến ở miền Bắc, nhân dân miền Nam bị qui kết là ngụy quân, ngụy quyền hứng chịu sự đối xử nhẫn tâm, bạc ác; những người rời quê hương, bỏ mạng trên biển cả chạy trốn chế độ xã hội chủ nghĩa.

Sự tri ân dành cho mọi con người ngã xuống, những người lính hy sinh vì lý tưởng của họ, vì chính nghĩa quốc gia hay vì lý tưởng cộng sản.

Bằng không bốn mươi năm qua hay hơn tám chục năm qua từ khi có Đảng trên mảnh đất này vẫn thế, vẫn không hy vọng được gì một sự đổi thay. Đảng CSVN bao giờ mới thôi ngợi ca những thắng lợi vẻ vang, với thời gian có khoảng cách chiêm nghiệm và so sánh mang tính lịch sử, nhìn ngoài lăng kính của họ, đồng nghĩa sự tung hô những sai lầm và tội ác.
 

Có thể tôi lướt nhìn cuộc diễu binh ngày 30.04. 2015 tổ chức sau chuyến thăm Trung quốc và trước chuyến công du Hoa kỳ của ông Tổng bí thư, với sự kiềm chế hoặc thờ ơ hơn, nếu không phải nghe bài phát biểu đi kèm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.  

Có chờ đến nhiều thế hệ sau nữa thì Hòa giải và Hòa hợp đều không thể, chừng nào chưa hóa giải được lòng hận thù, vốn là thứ tình cảm được một chính thể phản dân chủ giáo dục và kích động thành động lực cho suốt quá trình thiết lập và củng cố nền chuyên chính của một đảng bằng bạo lực.

Cũng như khởi đầu lời hiệu triệu của một phong trào cộng sản quốc tế không tưởng hô hào cho một chủ nghĩa quốc tế vô sản, phi dân tộc (nhưng thực tế trên phạm vi toàn cầu gây ra những xung đột thù hận dân tộc và sắc tộc nặng nề nhất), ngày hôm nay tiếng người cầm quyền hô muôn năm cho cho Đảng cộng sản rồi mới đến nước CHXHCN Việt Nam, đặt Cương lĩnh đảng trước Hiến pháp qua diễn văn của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, vẫn lỳ lợm khẳng định một ý chí thống trị trên dân tộc, trên nhân dân của một tập đoàn.

Họ, đại diện một đảng tổ chức mọi thất bại cay đắng có thực, năm 2013 bỏ qua cơ hội thảo luận và sửa đổi Hiến pháp để có thể cải cách thể chế một cách hòa bình, vẫn ngạo nghễ chọn vị thế lãnh đạo toàn diện. Hơn nữa lại còn đứng trên lễ đài mà kêu gọi hòa giải hòa hợp, nói lời dội xuống gây phản cảm nào hơn chế nhạo và nhục mạ. Những hàng binh diễu qua ngày 30.04 như vết cắt duy trì sự phân ly; bước quân hành như nỗ lực xếp giầy xéo lên vết thương của lòng dân Việt mọi miền. Nhân dân do đó có quyền đòi hỏi họ bắt đầu bằng hòa giải và hòa hợp ở cung cách khác: Hòa giải và Hòa hợp với Dân tộc.

©PKĐ

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

Đôi khi nắng xuân rải sáng

Phạm Kỳ Đăng

Tranh của © Claude Monet (1840-1926) Họa sĩ Ấn tượng Pháp

Đôi khi nắng xuân rải sáng
Ấm lên pha sắc chồi xanh
Như có tay người gieo hạt
Những chùm kỷ niệm long lanh

Nhiều khi sa sầm tán dẻ
Trời đầy khóe mắt âm u
Đọng sương lá oằn nặng trĩu
Nhỏ lăn nước mắt người mù

Thường khi ngồi đây tưởng nhớ
Bên sông có tháp vàng son
Nắng chiếu vào cây thánh giá
Đồng ca người hát nguyện hồn.

© PKĐ - April 2015

Tranh của Claude Monet (1840 - 1926) họa sĩ Ấn tượng Pháp.

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...