Tranh của © Louis Moilliet (1880-1962), họa sĩ người Thụy Sĩ |
Những ai biết một chút mà chẳng nhiều thêm hơn cái tên Rilke, ngoài tiểu thuyết „Cornet“ ít nhất họ cũng biết tới bài thơ Con báo, Ngày thu và cả bài Giàn Kéo Quân nữa. Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ này là bài đầu tầu, vâng, một „bài tủ“, được các nhà làm hợp tuyển đánh giá cao không hề kém các nhà viết tiểu sử. Hugo von Hofmannstahl (1) thậm chí còn xếp bài thơ vào mục các bài thơ „do nổi tiếng gần như có chút gì trĩu nặng“, „gần như quá là điệu nghệ“. Bản thân thi sĩ đọc bài thơ này thường xuyên, với sự thích thú và gặt hái nhiều kết quả. Năm 1906 viết ra giấy, bài thơ„Giàn Kéo Quân“ đã ra đời cùng Những bài thơ mới nhờ cuộc gặp gỡ với Rodin (2) và phong cách Hiện đại của Pháp đã tạo ra một bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác và thi ca của Rilke: đi tới tường tận của sự quan sát chính xác, hay như Stefan Zweig (3) hào hùng ưa thích diễn đạt: „sự toàn thắng của một ngôn ngữ tối hậu đã hoàn toàn trở thành điêu khắc“.
Tuy nhiên trong lần in đầu và cho cả tới sau khi tác giả mất, người ta phải bỏ mất một điều nhỏ nhặt trong ấn hình: Bây giờ, dựa theo ấn bản „Tác phẩm toàn tập“ của Ernst Zinns (4), thay vào ba dấu chấm mở ra màn chung kết của trí phóng tưởng, trước kia chỉ có một dấu chấm hết. Có phải chỉ là một điều vặt vãnh thôi không? Dẫu sao thì văn bản „Vũ nữ Tây Ban Nha“ ra đời kế tiếp, xuất hiện ước chừng đồng thời có thể có giá trị như khúc tụng ca vẻ gợi cảm bốc lửa. Và cả dòng thơ nổi tiếng nhất luôn quay lại và đúng là thế, không thể nào quên „ Và thế rồi sau, lúc nào đó một con voi trắng“ vang lên như vậy không hề khác, không phải là sự tình cờ. Dẫu sao Rilke đã do dự giữa hai biến thể, một biến thể còn không thì trùng khớp bằng lòng với điệp khúc co lại „ Và thế rồi sau, lúc nào đó...“ Tôi nghĩ cả hai cùng liên quan với nhau – trí tưởng tượng thơ ca kết cục là con voi trắng vinh quang và ba dấu chấm.
Nhưng điều gì đã làm nên tác động quyến rũ của „Giàn Kéo Quân“ vậy? Một mặt, chắc chắn do hình thức: Trong vũ điệu của những câu thơ jambơ năm chân, cùng với những thứ được miêu tả, chúng ta xoay đi trong vòng tròn. Sự nhiệm màu của phẩm giá đầy nhạc tính, của nhịp và vần thơ khiến người quan sát được một kẻ quan sát, chính là kẻ loăng quăng ghé lại đứng bên lề, với mãnh lực dịu dàng đưa vào tâm điểm sự kiện. Không một ai thoát khỏi vận động. Đồng thời ở đây chúng ta lên đường hành trình vào xứ sở của con trẻ. Mặc dù nó „trì hoãn lâu, trước khi chìm đắm“ thì lãnh địa của nhớ thương vẻ như không vướng bận gì bất kỳ một sự đa cảm và sướt mướt. Vô tình công viên Jardin du Luxembourg biến thành thiên đường đánh mất, nơi nghiệm trải nguyên thủy được khơi gợi. Bởi ở đó là những cô gái cưỡi trên lưng ngựa. Hồ như vừa thoát ra khỏi nghi lễ trinh trắng, những ánh mắt buông mơ màng của các cô bé bắt gặp ánh mắt của người lớn đứng ngoài và như thế là ánh mắt của chúng ta: Và đôi khi một nụ cười đáp lại. Đòi hỏi giới tính đang thức dậy trong tuổi dậy thì chắc rằng còn chưa là sự hứa hẹn khoái cảm của một Lolita, mà thế đó là dự cảm mơ màng pha một thoáng điệu đàng mới lớn.
Trong đám các con thú sặc sỡ, „và thế rồi sau vào lúc nào đó“ nổi bật con voi trắng xuất hiện nhảy nhịp tách ra khỏi hàng. Tính khí bạch tạng thất thường của tự nhiên, nó hoàn hảo là một con thú thần thoại. Xưa thần Indira ưa cưỡi trên lưng nó và nó đóng vai trò trong huyền thoại về Đức Phật. Trước khi sinh ra Ngài, Maya, mẹ của Đức Phật đã trông thấy một con voi trắng xâm phạm vào lòng bà. Có nói quá không, nếu như ta phỏng đoán ở mô-típ chủ đạo của Rilke một âm hưởng gợi dục ở tầng sâu? Hầu như không: Những người hoài nghi nên nhớ rằng, trong tập Những bài thơ mới, sát trước bài „Giàn Kéo Quân“ lại chính là bài sonnet „Đức Phật“. Chính thế trong nghệ thuật đoán định vì vậy ẩn chứa ma lực của bài thơ, nền đất hai lớp của một sự dịu dàng rất đặc biệt này tên là gợi cảm.
© Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Nguồn: Một trăm bài thơ của thế kỷ, kèm bình giảng, được tuyển lựa bởi Marcel Reich-Ranicki, Nhà xuất bản Insel Verlag, 2000
Giàn Kéo Quân
Jardin du Luxembourg
Dưới vòm mái đổ vệt dài trong một thoáng
Xoay vòng bầy ngựa sặc sỡ sắc màu
Tất cả chúng đến từ đất nước, dài lâu
Trì nán lại trước khi chìm đắm
Ấy một số bên cỗ xe căng thẳng
Trông vẻ mặt chúng mà thế lộ vẻ can trường
Một con sư tử đỏ hung dữ cùng chúng đi trên đường
Và hồi sau, lúc nào đó, một con voi trắng
Cứ như trong rừng, có cả một con tuần lộc
Có điều nó đeo một bộ yên
Một cô gái nhỏ mặc đồ xanh, nai nịt ngồi trên
Và một cậu bé vận đồ trắng cưỡi trên lưng sư tử
Và cậu giữ chặt lấy người bằng bàn tay nóng, bé nhỏ
Khi con mãnh sư lè lưỡi, nhe nanh
Và hồi sau, lúc nào đó, một con voi trắng
Cả các cô gái trên lưng ngựa lướt qua, tươi sáng
Suýt bật lên khỏi cú ngựa lồng
Giữa đà nhào nhún nhẩy trên không
Ngước mắt, tới nơi nào, liếc sang đây, nhìn tới
Và hồi sau, lúc nào đó, một con voi trắng
Và chóng vánh, hối hả và kết lắng
Và quay và xoay thôi không mục đích nào
Màu đỏ, màu xanh và xám tạt qua ào ào
Một diện mạo hồ như chưa bắt đầu, bé nhỏ
Và thư thoảng hé nụ cười từ đó
Ấm áp, chói chang và phung phí hiến dâng
Cho trò chơi nín thở, mù câm...
©Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Das Karussell
Jardin du Luxembourg
Mit einem Dach und seinem Schatten dreht
sich eine kleine Weile der Bestand
von bunten Pferden, alle aus dem Land,
das lange zögert, eh es untergeht.
Zwar manche sind an Wagen angespannt,
doch alle haben Mut in ihren Mienen;
ein böser roter Löwe geht mit ihnen
und dann und wann ein weißer Elefant.
Sogar ein Hirsch ist da, ganz wie im Wald,
nur dass er einen Sattel trägt und drüber
ein kleines blaues Mädchen aufgeschnallt.
Und auf dem Löwen reitet weiß ein Junge
und hält sich mit der kleinen heißen Hand
dieweil der Löwe Zähne zeigt und Zunge.
Und dann und wann ein weißer Elefant.
Und auf den Pferden kommen sie vorüber,
auch Mädchen, helle, diesem Pferdesprunge
fast schon entwachsen; mitten in dem Schwunge
schauen sie auf, irgendwohin, herüber –.
Und dann und wann ein weißer Elefant.
Und das geht hin und eilt sich, dass es endet,
und kreist und dreht sich nur und hat kein Ziel.
Ein Rot, ein Grün, ein Grau vorbeigesendet,
ein kleines kaum begonnenes Profil –.
Und manchesmal ein Lächeln, hergewendet,
ein seliges, das blendet und verschwendet
an dieses atemlose blinde Spiel ...
Bản tiếng Anh (tham khảo)
The Carourel
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
A little while both roof and shadow turn
with the quick steeds, whose motley coats enchant,
all hailing from the land that knows no want,
whose distant end no childlike eyes discern.
And every champing horse is arrogant,
though some are hitched to coaches, it is true;
a red and wicked lion bounds there too,
and now and then a huge, white elephant.
Even a wild stag flies along the track,
as in the wood, but saddle he must wear,
and a small girl in blue perched on his back.
And on the ruddy lion rides a young
blonde boy, with small hot hand and quickened pant,
the while the lion shows his teeth and tongue.
And now and then a huge, white elephant.
And round and round on their swift steeds they tear,
and clear-eyed girls, who are quite grown, among
the other children ride embarrassed, swung
in forward flight, looking now here, now there—
And now and then a huge, white elephant.
And it goes on and hurries to a close,
circling and whirling with no end or aim.
A red, a green, a grey rides forth, and goes,
A small vague profile, fading as it came.
And sometimes a soft glance abruptly glows,
a dazzling spendthrift smile some child bestows
briefly upon this blind and breathless game.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương tiếng Đức.
Ulrich Weinzierl (sinh năm 1954): Nhà báo người Áo, giám đốc nhà xuất bản, cây bút phê bình văn học của Frankfurter Allgemeine Zeitung.
(1) Hugo von Hofmannstahl (1874-1929): Nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia người Áo, đại diện quan trọng của Phong cách Hiện đại Vienna.
(2) Auguste Rodin (1840-1917): Nhà tạc tượng và họa sĩ, vị thủy tổ của nền điêu khắc hiện đại. Nhà thơ Rainer Maria Rilke đã từng xin làm thư ký cho ông vài năm.
(3) Stefan Zweig (1881-1942): Nhà văn, nhà thơ người Áo.
(4) Ernst Zinns (1910-1990): Nhà ngữ văn nghiên cứu văn học cổ điển Đức
Giàn kéo quân lớn, tranh của Louis Moilliet (1880-1962), họa sĩ người Thụy Sĩ