Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XVI.
Chuông chiều đổ. Từ trên dãy núi lại
vọng dội về trong những thanh âm
trầm đục. Và anh cảm một làn khí lâng lâng
bay từ đáy thung lũng xanh, một làn lạnh giá.
Trên những lạch nước đồng trắng xóa
rả rích như thầm thào cầu nguyện của trẻ em;
đi qua cánh rừng cao vút rặng thông đen
như một sự về chiều, già nua thế kỷ.
Qua rãnh cầy của khe mây hé mở,
đêm ném những rặng san hô máu hồng
tới những vách đá – và chúng vỡ tung
không tiếng động từ những bờ vai thiết thạch.
XII.
Lữ khách đi khắp cùng thế giới
Hãy sải bước trong bình an!
Không một ai nào biết tới
Khổ đau nhân thế như anh!
Nếu anh với giác ngộ
soi sáng, bước khởi hành
Nỗi đau ngước đôi mắt
Nhòa lệ nhìn lên anh.
Ở bên trong tiềm ẩn
Dưới cùng đáy thẳm sâu,
Khi chúng gọi anh: “- Hãy hiểu!“,
Một thế giới đầy đớn đau.
Ngàn giọt lệ cất tiếng
vĩnh hằng nói, không thôi.
Và trong từng giọt một
Hình ảnh của anh soi!
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XVI.
Abendläuten. Aus den Bergen hallt es
wieder neu zurück in immer mattern
Tönen. Und ein Lüftchen fühlst du flattern
von dem grünen Talgrund her, ein kaltes.
In den weissen Wiesenquellen lallt es
wie ein Stammeln kindischen Gebetes;
durch den schwarzen Tannenhochwald geht es
wie ein Dämmern, ein jahrhundertaltes.
Durch die Fuge eines Wolkenspaltes
wirft der Abend rote Blutkorallen
nach den Felsenwänden. – Und sie prallen
lautlos von den Schultern des Basaltes.
XVII.
Weltenweiter Wandrer
walle fort in Ruh ...
also kennt kein andrer
Menschenleid wie du.
Wenn mit lichtem Leuchten
du beginnst den Lauf,
schlägt der Schmerz die feuchten
Augen zu dir auf.
Drinnen liegt – als riefen
sie dir zu: Versteh! –
tief in ihren Tiefen
eine Welt voll Weh ...
Tausend Tränen reden
ewig ungestillt,
und in einer jeden
spiegelt sich dein Bild!
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Paula Modersohn-Becker (1876-1907): Nữ họa sĩ Đức, bạn của nhà thơ.
Tranh ©
Paula Modersohn-Becker
|
Chuông chiều đổ. Từ trên dãy núi lại
vọng dội về trong những thanh âm
trầm đục. Và anh cảm một làn khí lâng lâng
bay từ đáy thung lũng xanh, một làn lạnh giá.
Trên những lạch nước đồng trắng xóa
rả rích như thầm thào cầu nguyện của trẻ em;
đi qua cánh rừng cao vút rặng thông đen
như một sự về chiều, già nua thế kỷ.
Qua rãnh cầy của khe mây hé mở,
đêm ném những rặng san hô máu hồng
tới những vách đá – và chúng vỡ tung
không tiếng động từ những bờ vai thiết thạch.
XII.
Lữ khách đi khắp cùng thế giới
Hãy sải bước trong bình an!
Không một ai nào biết tới
Khổ đau nhân thế như anh!
Nếu anh với giác ngộ
soi sáng, bước khởi hành
Nỗi đau ngước đôi mắt
Nhòa lệ nhìn lên anh.
Ở bên trong tiềm ẩn
Dưới cùng đáy thẳm sâu,
Khi chúng gọi anh: “- Hãy hiểu!“,
Một thế giới đầy đớn đau.
Ngàn giọt lệ cất tiếng
vĩnh hằng nói, không thôi.
Và trong từng giọt một
Hình ảnh của anh soi!
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức bài thơ gồm 28 khổ thơ đánh theo số La mã.
Träumen
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XVI.
Abendläuten. Aus den Bergen hallt es
wieder neu zurück in immer mattern
Tönen. Und ein Lüftchen fühlst du flattern
von dem grünen Talgrund her, ein kaltes.
In den weissen Wiesenquellen lallt es
wie ein Stammeln kindischen Gebetes;
durch den schwarzen Tannenhochwald geht es
wie ein Dämmern, ein jahrhundertaltes.
Durch die Fuge eines Wolkenspaltes
wirft der Abend rote Blutkorallen
nach den Felsenwänden. – Und sie prallen
lautlos von den Schultern des Basaltes.
XVII.
Weltenweiter Wandrer
walle fort in Ruh ...
also kennt kein andrer
Menschenleid wie du.
Wenn mit lichtem Leuchten
du beginnst den Lauf,
schlägt der Schmerz die feuchten
Augen zu dir auf.
Drinnen liegt – als riefen
sie dir zu: Versteh! –
tief in ihren Tiefen
eine Welt voll Weh ...
Tausend Tränen reden
ewig ungestillt,
und in einer jeden
spiegelt sich dein Bild!
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Paula Modersohn-Becker (1876-1907): Nữ họa sĩ Đức, bạn của nhà thơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét