Em còn nhớ: những vì sao rơi xuống
Như bầy ngựa qua tung vó ngang trời
Qua những cây sào đột nhiên đưa tới
của nguyện ước lòng – ta có bao thôi?-
Bởi thế sao băng, không sao đếm hết
Mỗi chớp mắt như từng đính kết
Với ạt ào thách chấp của trò chơi,
Và con tim cảm nhận như toàn khối
Dưới mảnh vụn đây của vầng chói lọi
Và an hòa như thể vượt qua.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:
Weißt du noch: fallende Sterne
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Weißt du noch: fallende Sterne, die
quer wie Pferde durch die Himmel sprangen
über plötzlich hingehaltne Stangen
unsrer Wünsche - hatten wir so viele? -
denn es sprangen Sterne, ungezählt;
fast ein jeder Augenblick war vermählt
mit dem raschen Wagnis ihrer Spiele,
und das Herz empfand sich als ein Ganzes
unter diesen Trümmern ihres Glanzes
und war heil, als überstünd es sie"
Một bản tiếng Anh:
Do you still remember the shooting stars
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Do you still remember the shooting stars
like horses racing across the heavens,
springing over the rapidly erected fences
of our wishes - did we have so many? -
for those leaping stars were countless;
with nearly every glance, we engaged
in the rash gamble that they played,
while our hearts felt firm and resilient
beneath the debris of their brilliance,
safe and sound, we had survived them!
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh thuốc nước của họa sĩ phái Biểu hiện Đức Emil Nolde (1867-1956).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét