Thứ Hai, 27 tháng 12, 2021

Đêm mùa xuân

Hermann Hesse (1877-1962) 




Trong cây dẻ gió ngái ngủ
Dướn bộ lông vũ phồng căng,
Ở những mái nhọn rỏ xuống
Ráng hoàng hôn và ánh trăng.

Mọi giếng rì rào mát lạnh
Thầm thì truyền thuyết vấn vương,
Trên gác sửa soạn giàn chuông
Mười giờ đánh lên trang trọng.

Trong những khu vườn im bóng
Cây óng trăng ngủ chập chờn,
Xào xạc qua những tán tròn
Hơi thở sâu của mộng đẹp.

Chần chừ tay tôi buông chiếc
Vĩ cầm tấu nóng của tôi,
Nhìn xa vào miền xanh biếc,
Mơ, im lặng, nhớ bồi hồi.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Frühlingsnacht

Hermann Hesse (1877-1962)

Im Kastanienbaum der Wind
Reckt verschlafen sein Gefieder,
An den spitzen Dächern rinnt
Dämmerung und Mondschein nieder.

Alle Brunnen rauschen kühl
Vor sich hin verworrene Sagen,
Zehnuhrglocken im Gestühl
Rüsten feierlich zum Schlagen.

In den Gärten unbelauscht
Schlummern mondbeglänzte Bäume,
Durch die runden Kronen rauscht
Tief das Atmen schöner Träume.

Zögernd leg ich aus der Hand
Meine warmgespielte Geige,
Staune weit ins blaue Land,
Träume, sehne mich und schweige.

Chú thích của người dịch:
Hermann Hesse: (Hermann Karl Hesse, cũng dưới bút danh Emil Sinclair, 1877 - † 1962) nhà văn, nhà thơ và họa sĩ. Ông nổi tiếng thế giới với những tác phẩm văn xuôi Siddhartha hoặc Steppenwolf (Sói thảo nguyên) cũng như với những bài thơ như bài Stufen (Những bậc thang). Năm 1946 Hesse nhận giải thưởng Nobel văn chương và Huân chương Pour le mérite của Viện Hàn lâm Nghệ thuật.
Tiểu sử: Hermann Hesse sinh ngày 02 tháng 7 năm 1877 tại Calw, Württemberg. * Học trường Latin ở Calw và học trường dòng tại tu viện Maulbronn, nhưng bỏ học sau vài tháng. * Sau khi học hết bậc phổ thông, học thợ cơ khí đồng hồ, nghề bán sách và sáng tác văn học. * Năm 1899 xuất bản tập thơ đầu tiên Những bài ca lãng mạn. * Hoàn thành tiểu thuyết mang lại thành công nghề nghiệp Peter Camenzind (1904). * Kết hôn với Mari Bernouli người Thụy sĩ và chuyển đến Gaienhofen, một vùng hẻo lánh ở Bodensee. * 1911 tiến hành một chuyến du hành Đông Á. * Từ 1912 sống tại Bern. * Năm 1919 xuất bản tiểu thuyết nổi tiếng Demian, cũng trong năm đó ông chuyển về sống một mình tại Montaglona (Tessin).* Ly hôn và kết hôn với Ruth Wenger. * Tác phẩm danh tiếng nhất của ông Steppenwolf xuất bản vào năm 1927, nhân dịp sinh nhật tuổi 50. * Năm 1931 kết hôn lần thứ ba với Ninon Dolbin. * 1924 trở thành công dân mang quốc tịch Thụy Sĩ. * Trong thế chiến II, năm 1943 ông hoàn thành tác phẩm Das Glasperlenspiel. * Năm 1946 Nhận giải thưởng Nobel văn chương. * Hermann Hesse mất tại Montaglona ngày 09.08.1962.
Tác phẩm:
Thơ:
– Những bài ca lãng mạn (Romantische Lieder, 1899), thơ
– Thơ (Gedichte, 1902), thơ
– Trên đường (Unterwegs, 1911), thơ
– Thơ của người họa sĩ (Gedichte des Malers, 1920), thơ
– Thơ tuyển (Ausgewählte Gedichte, 1921), thơ
– Khủng hoảng: Nhật ký (Krisis : Ein Stück Tagebuch, 1928), thơ
– Sự an ủi của đêm (Trost der Nacht, 1929), thơ
– Thơ mới (Neue Gedichte, 1937), thơ
– Thơ (Gedichte, 1942), thơ
Văn xuôi:
- Peter Camenzind (1904), tiểu thuyết, Tuổi trẻ và cô đơn, Vũ Đình Lưu dịch.
- Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906), tiểu thuyết.
- Tuổi trẻ băn khoăn (Demian, 1917), truyện dài, Hoài Khanh dịch.
- Siddhartha (1920), tiểu thuyết được Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch dưới tiêu đề Câu chuyện dòng sông.
- Sói thảo nguyên (Der Steppenwolf, 1927), tiểu thuyết.
- Đôi bạn chân tình (Narziss und Goldmund), Vũ Đình Lưu dịch.
- Hành trình về Phương Đông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết.
- Trò chơi hạt cườm pha lê (Das Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết.

Tranh của Fritz Overbeck (1869-1090): Họa sĩ Đức.

Thứ Ba, 21 tháng 12, 2021

Những trời chan hòa

Rainer Maria Rilke (1875-1926)



Những trời chan hòa những vì sao phung phí
rực rỡ trên nỗi muộn phiền. Thay vì khóc vào gối chiếc
hãy khóc ngước nhìn lên. Mò mẫm xung quanh,
cái vũ trụ cuồn cuộn về xa tắp bắt đầu ở đây chính nơi gương mặt
khóc, gương mặt kết thúc. Ai đã chặn dòng ,
nếu anh thúc giục về nơi ấy? Chẳng một ai. Có chăng,
bất chợt anh vật lộn với hướng chảy hùng mạnh
của các chòm sao nọ đổ về anh. Hãy thở.
Hãy hít thở vào tối tăm của trái đất và lại
ngước nhìn lên đi! Lần nữa. Từ trên xuống
nhẹ nhõm và không bộ mặt, chiều sâu dựa vào anh.
Gương mặt hàm chứa đêm lìa dứt
cấp cho gương mặt của anh không gian.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Überfließende Himmel

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Überfließende Himmel verschwendeter Sterne
prachten über der Kümmernis. Statt in die Kissen,
weine hinauf. Hier, an dem weinenden schon,
an dem endenden Antlitz,
um sich greifend, beginnt der hin-
reißende Weltraum. Wer unterbricht,
wenn du dort hin drängst,
die Strömung? Keiner. Es sei denn,
dass du plötzlich ringst mit der gewaltigen Richtung
jener Gestirne nach dir. Atme.
Atme das Dunkel der Erde und wieder
aufschau! Wieder. Leicht und gesichtslos
lehnt sich von oben Tiefe dir an. Das gelöste
nachtenthaltne Gesicht giebt dem deinigen Raum.

Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Fritz Overbeck (1869-1090): Họa sĩ Đức.

Thứ Bảy, 18 tháng 12, 2021

Về sự kiên nhẫn

Rainer Maria Rilke (1875-1926)    




Người ta phải để sự vật có
sự phát triển riêng, thầm lặng
không bị quấy đảo,
đến tự sâu bên trong
không dồn ép
hoặc tăng tốc bởi bất kỳ thứ gì
tất cả được thai nghén – và
sau rồi sinh nở…

Chín muồi như cái cây,
không ép dồn nước sinh tố của nó
và đứng hiên ngang trong giông tố của mùa xuân,
không sợ hãi,
rằng sau đó
có thể không
mùa hè nào đến.

Vậy mà mùa hè đến!

Nhưng chỉ đến với người kiên nhẫn,
đó đây, như thể Vĩnh cửu
phủ phục trước họ,
vô sự, xa xăm và lặng lẽ…

Người ta phải có lòng nhẫn nại

Với điều không thể hóa giải trong tim
và tìm cách yêu thương lấy những tra vấn của mình,
như những căn phòng khóa kín,
và như những cuốn sách
được viết trong một ngôn ngữ rất xa lạ.

Trọng tâm xoay quanh việc nghiệm sinh tất cả.
Nếu người ta sống trải những tra vấn,
một cách không nhận biết,
vào một ngày lạ xa nào đó
dần dà người ta có thể
sống vào trong những câu trả lời.

Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Über die Geduld

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Man muss den Dingen
die eigene, stille
ungestörte Entwicklung lassen,
die tief von innen kommt
und durch nichts gedrängt
oder beschleunigt werden kann,
alles ist austragen – und
dann gebären…

Reifen wie der Baum,
der seine Säfte nicht drängt
und getrost in den Stürmen des Frühlings steht,
ohne Angst,
dass dahinter kein Sommer
kommen könnte.

Er kommt doch!

Aber er kommt nur zu den Geduldigen,
die da sind, als ob die Ewigkeit
vor ihnen läge,
so sorglos, still und weit…

Man muss Geduld haben

Mit dem Ungelösten im Herzen,
und versuchen, die Fragen selber lieb zu haben,
wie verschlossene Stuben,
und wie Bücher, die in einer sehr fremden Sprache
geschrieben sind.

Es handelt sich darum, alles zu leben.
Wenn man die Fragen lebt, lebt man vielleicht allmählich,
ohne es zu merken,
eines fremden Tages
in die Antworten hinein.

Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Gabriele Münter (1877-1962): Nữ họa sĩ Đức, đại diện quan trọng của phái Biểu hiện

Thứ Bảy, 11 tháng 12, 2021

Bài thơ "Vơ-ni-dơ trong mưa" của Peter Huchel

Matthias Weichelt    




Man mác nỗi buồn trên đầm phá: Bài thơ không đón mừng thành phố Cộng hòa quí tộc thường ra được biết tới như đích đến của nhớ mong, mà là điểm khởi nguồn cho nỗi nhớ nhà.

Có những thành phố mà tự cái tên ngân nga như một thanh âm của cổ tích, một tiếng vọng của tầm vóc và vẻ đẹp huyền thoại: Constantinople và Paris, Casablanca và Odessa, Alexandria và Venice. Ai đã đến nơi đây đều muốn dâng hiến mình cho nhiệm màu của những thời đại đã qua, muốn chiêm ngưỡng những chứng tích của vàng son xưa kia rực rỡ. Rằng trong bài thơ của Peter Huchel trọng tâm xoay quanh thứ khác hơn là niềm hứng thú ngao du khấp khởi những chờ đợi, riêng tiêu đề bài thơ tóm lại đã cho ta dự cảm thấy điều đó. Vàng tỏa rạng của con sư tử Markus óng ánh đằng sau lớp sương mù dày đặc nơi đây, từ tòa kiến trúc đá của lâu đài theo nước mưa nhỏ giọt.

Đối với Huchel, năm 1971 từ Muynich đi qua Vơ-ni-dơ tới Rome, sự tái ngộ với Cộng hòa quí tộc Serenissima (Cộng hòa Venice) với Viện văn hóa Società Europea di Cultura vốn ông là thành viên trực thuộc từ năm 1958, không là một sự trở về lòng không trĩu nặng. Vết cắt thật quá sâu, khi ông, sau khi bị bắt buộc thôi chức giám đốc biên tập tạp chí „Ý nghĩa và Hình thức“ và sau mười năm quản thúc cuối cùng được rời khỏi đất nước với viễn cảnh mờ mịt không được nhìn lại quê hương vùng Mark của mình. Nỗi nhớ nhung những cánh rừng thông, đồng đất và những cái hồ, nhưng mà cả nỗi nhớ những bạn bè bỏ lại đã đau đáu theo kèm ông và vợ ông tới tận thành phố Vĩnh cửu, nơi họ, với tư cách là khách của biệt thự Villa Massimo cùng nhau sống những tháng đầu tiên của cuôc đời mới. „ Vơ-ni-dơ và Rome đã ít nhiều quật ngã chúng tôi“, dạo tháng Năm Huchel viết trong thư gửi Clemens Graf Podewils (1). Tuy nhiên nếu như những bức thư của Walter (2) và Charlotte Janka gợi nhớ về những cuộc gặp gỡ chẳng bao giờ khả thi nữa, không tới, thỉ vẻ tươi vui của mùa hè nước Ý đột nhiên nhợt nhạt. „Các bạn không thể hình dung ra đâu, nỗi nhớ nhà rồi cắn rứt tôi, rồi sau đó tất cả đi vào quên lãng, thềm điện thành Rome, nơi chúng tôi ngồi trên đó, những chuyến xe ô tô với những người trẻ dễ mến khách …đi ra biển. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng tắm ở đó, cảm thấy khoan khoái, chỉ nghe thấy người nói tiếng Ý, trẻ con Ý la hét – nhưng mà cứ đến tối…“

Sự bồn chồn của nỗi nhớ quê nhà

Trong bài thơ, nỗi ưu tư mài sắc ánh nhìn, để cho ánh mắt lướt qua sự rạng rỡ rộng tầm, lái suy tư xuống những nền tảng mục nát mang nặng và chịu đựng tất thẩy và sự „kiên nhẫn lớn lao“ tuy nhiên không ai biết – hay không „ca tụng“, như Huchel từng viết trong một bản sớm trước đó, để lại rồi viết tiếp: Ở dưới sâu dòng nước/ Những con ốc/ Bên gáy của tảng đá,/ Cảm nhận những cội cành ứ bùn đang sống/ Dưới sức nặng của cái đẹp?“. Thành phố được ngưỡng mộ của những cái tên đại dương sinh ra an tọa trên những trụ dầm gỗ đẽo vuông vức cắm xuống lòng đất ẩm, trên thiên nhiên bị khuất phục. Nhưng mà thế, tự nhiên nơi Huchel chưa bao giờ là cảnh tượng thi vị chưa động chạm tới hay là miền lý tưởng của thiên thượng, mà luôn là khán trường của những can gián của con người. địa điểm của những nghiệm trải nguyên tố, đan kết với lịch sử và văn hóa không thể tách rời. Ai đã hiểu điều đó, sẽ biết giá cuộc sống ngấm ngầm lan tỏa trong gỗ rữa mục, nhìn thấy tòa kiến trúc nở hoa trong đá, con sư tử tạc chốt tạc vào trong kim loại lấp lánh. Và có thể nhận ra trên mặt nước sởn gai ốc của làn da. Kết cục trong thi ca, như vào những năm 30 Huchel đã viết trong lời „Tự phát giác“ phác thảo như một tuyên ngôn thi ca, vấn đề chính ở chỗ“ đến sâu hơn sau ngày nhật, khác với đến đằng sau các hiện tượng“.

Năm 1972, khi tập thơ „Những ngày tính đếm“ của ông cùng với bài thơ in lại ở đây ra mắt, nhiều nhà phê bình đã thất vọng. Họ đã ngóng chờ thơ lưu vong than trách và những phanh phui gói ghém trong những câu thơ, nhưng trước hết một sự thanh toán với nhà nước CHDC Đức. Mà thế đó người đàn ông đứng trong mưa không hề để tâm đến thứ đó. Trong nơi xa xôi ông nhìn thấy những con tàu han rỉ trong những xưởng đóng tàu mục nát, một hình tượng về sự tuần hoàn của cái đẹp và sự suy tàn. Ông đã sang phương Tây lòng không hề hy vọng, dạo đó Huchel nói trong một cuộc trò chuyện, rằng vào tuổi ông người ta không còn hợp để bứng đi trồng nơi khác nữa. Mà thế con phà đến, và trong sự chờ đợi chuyến sang bên kia lịch sử đã câm lặng và tự nhiên câm lặng. Câu trả lời là bài thơ. Và những bài thơ hay, Huchel tin, đứng cho riêng mình như một hòn đá, một cái cây hay một vì sao.

Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Vơ-ni-dơ trong mưa

Peter Huchel (1903-1981)

Trong sương mù
còn óng kim vàng của sư tử,
rỏ giọt xuống từ tòa đá.
Những tên người, sinh ra cùng đại dương,
Ai viết vào ánh sáng đẫm muối?
Chẳng ai biết
lòng nhẫn nại lớn lao
của những cọc dầm.

Chờ con phà
trong mưa trút tầm,
đánh bọt sủi sởn gai
vào nước,
tôi nhìn sang bờ kia
những con tàu han rỉ
của quần đảo Giudecca.

Những bản đồ hàng hải lặng câm.
Rồi vỏ ốc
lặng câm
trên gáy của tảng đá.

©®Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Venedig

Peter Huchel (1903-1981)

Noch im Nebel
leuchtet das Gold des Löwen,
das steinerne Laubwerk tropft.
Namen, meergeboren,
wer schrieb sie ins salzige Licht?
Keiner nennt
die große Geduld
der Pfähle.

Auf die Fähre
wartend im Regen,
der Poren
ins Wasser schlägt,
blick ich hinüber
zu den rostigen Schiffen
der Giudecca.

Die Seekarten schweigen.
Es schweigt
die Muschel
am Nacken des Steins.

Chú thích của người dịch:

Matthias Weichelt, sinh năm 1971: Tổng biên tập của tờ "Sinn und Form", sống tại Berlin.

Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên.
Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin
1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna.
1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: "Die literarische Welt", "Das Innere Reich", "Die Kolonne" và "Vossische Zeitung".
1932: Giải thưởng thơ của tạp chí „Kolone“ cho tập thơ "Der Knabenteich" (Hồ của những cậu trai)
1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal.
1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức.
1941-1945: Nghĩa vụ quân sự, phục dịch trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam sô-viết.
1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật.
1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập „Những bài thơ“.
1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng „Sinn und Form“ (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin.
1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. Từ 1956 đại diện DDR tại Biennale thơ ca quốc tế.
1953: Bị o ép từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải làm ngơ.
1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống.
1962: Từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“
1963: Tập thơ „Chausseen, Chausseen“ xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane-Preis của Tây Berlin.
1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fotane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín.
1965: Không được rời DDR nhận chức thỉnh giảng về thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen.
1971: Nhờ có sự can thiệp của Viện hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ „Những ngày tính đếm“.
1976 – 1979: Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Jacob-Burckhardt-Preis und dem Eichendorff-Preis).
1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện hàn lâm thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông.
Peter Huchel mất năm 1981.

(1) Clemens Graf Podewils (1905-1978): Nhà báo, nhà văn Đức.
(2) Walter Janka (1914-1994): Làm công tác biên kịch và xuất bản, giám đốc xưởng phim DEFA. Ông được biết tới bởi những hoạt động bất đồng chính kiến, phiên tòa dàn dựng xử âm mưu phản cách mạng năm 1956, sự tù đầy tại CHDC Đức, được ông thuật lại trong tác phẩm" Những mắc mớ với chân lý" (Schwierigkeiten mit der Wahrheit)

Tranh của Auguste Renoire (1841-1919): Họa sĩ Pháp, đại diện quan trọng của phái Ấn tượng (Impressionism).

Thứ Hai, 6 tháng 12, 2021

Vơ-ni-dơ trong mưa

Peter Huchel (1903-1981)   




Trong sương mù
còn óng kim vàng của sư tử,
rỏ giọt xuống từ tòa đá.
Những tên người, sinh ra cùng đại dương,
Ai viết vào ánh sáng đẫm muối?
Chẳng ai biết
lòng nhẫn nại lớn lao
của những cọc dầm.

Chờ con phà
trong mưa trút tầm,
đánh bọt sủi sởn gai
vào nước,
tôi nhìn sang bờ kia
những con tàu han rỉ
của quần đảo Giudecca.

Những bản đồ hàng hải lặng câm.
Rồi vỏ ốc
lặng câm
trên gáy của tảng đá.

©®Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức

Venedig

Peter Huchel (1903-1981)

Noch im Nebel
leuchtet das Gold des Löwen,
das steinerne Laubwerk tropft.
Namen, meergeboren,
wer schrieb sie ins salzige Licht?
Keiner nennt
die große Geduld
der Pfähle.

Auf die Fähre
wartend im Regen,
der Poren
ins Wasser schlägt,
blick ich hinüber
zu den rostigen Schiffen
der Giudecca.

Die Seekarten schweigen.
Es schweigt
die Muschel
am Nacken des Steins.

Chú thích của người dịch:
Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên.
Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin
1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna.
1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: "Die literarische Welt", "Das Innere Reich", "Die Kolonne" và "Vossische Zeitung".
1932: Giải thưởng thơ của tạp chí „Kolone“ cho tập thơ "Der Knabenteich" (Hồ của những cậu trai)
1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal.
1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức.
1941-1945: Nghĩa vụ quân sự, phục dịch trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam sô-viết.
1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật.
1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập „Những bài thơ“.
1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng „Sinn und Form“ (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin.
1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. Từ 1956 đại diện DDR tại Biennale thơ ca quốc tế.
1953: Bị o ép từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải làm ngơ.
1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống.
1962: Từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“
1963: Tập thơ „Chausseen, Chausseen“ xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane-Preis của Tây Berlin.
1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fotane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín.
1965: Không được rời DDR nhận chức thỉnh giảng về thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen.
1971: Nhờ có sự can thiệp của Viện hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ „Những ngày tính đếm“.
1976 – 1979 Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Jacob-Burckhardt-Preis und dem Eichendorff-Preis).
1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện hàn lâm thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông.
Peter Huchel mất năm 1981.

Tranh của Claude Monet (1840-1926): Họa sĩ Pháp, đại diện quan trọng của phái Ấn tượng (Impressionism).

Thứ Năm, 2 tháng 12, 2021

Quá cô đơn tôi đã mọc lên và cao quá

Christa Melchinger       



Sự cô đơn tuyệt đối – chờn vờn trong những ảnh hình và thành ngữ bay bướm và trang nhã: nào ở đâu người ta còn có thể đọc được điều này như thế nữa?

Đã có tới ngàn lần huy động: sự thêu dệt một cách truyền thống cho tự nhiên theo khuôn mẫu lãng mạn. Và nếu như người ta tính cả cái tiêu đề bài thơ vào đây trong truyền thống đào luyện của thế kỷ 19. Tôi chợt nghĩ tới những bài sonnet về Vơ-ni-dơ của Platten(1), tôi nhớ tới bài thơ „ Trên Dòng Kênh Lớn – Auf dem Canal Grande“ của C.F. Meyer (2). Nhưng chẳng có gì còn đọng lại ở bài thơ này từ cái ý nghĩa tầng sâu mang tính biểu tượng đó (rất đặc trưng cho những năm tám mươi), thứ để cho tiến trình xảy ra trong thơ chỉ có giá trị như không sát thực, mà trong vai trò là phương tiện của nhận thức, thì cả cuộc sống của con người cũng vậy. Phải thế chăng sự chủ thể hóa một cách lãng mạn?

Cái nhìn nhậy bén, những viễn cảnh của cái tôi trữ tình, từ đó phối dựng nên hoạt cảnh – cái chất đồ vật mau đi mất hút, cái gì sẽ quyết định đây?

Ở đâu là tình cảm, được khêu lên bởi các sự vật mà chúng liên hệ tới? Những người giải luận chương trình của thời đại đòi hỏi: hãy gọi tên đích xác các sự vật. Nietzsche nói về „miền run rẩy“. Tính chất lìa ra tự lập, không còn phục vụ lâu hơn nữa đối tượng, từ chối sự đơn nghĩa. Và cái ẩn dụ này liên hệ tới những chi? „Trào sôi lên những giọt vàng kim“- Thuyền gondela, ánh sáng hay là âm nhạc? Theo một cách thức đáng ngạc nhiên, cái ẩn dụ đó có vẻ bị kéo căng ra, không thể định vị, tàn phá mối liên kết thực tại trong tính nhân tạo đầy tham vọng của nó. Bù vào đó sáng tạo những liên tưởng: Không khí, xúc tác, ấn tượng: „chuyếnh choáng bơi…“ thế giới lấp loáng vỡ vụn, hiện ra như một phóng tưởng của cái Tôi, của những cảm nhận. Sự chủ thể hóa của Nietzsche đi xa hơn nhiều so với các nhà lãng mạn.

Cái Tôi lấp đầy tất cả, tất cả được lập luận trong nó: „ run rẩy trước lòng dạ xốn xang“ – đó không còn là một sự diễn giải chủ quan của thế giới, đó là thế giới của cái Tôi, cái Tôi là Thế giới. Không còn điểm liên hệ nữa, với những trường liên hệ mọi liên kết đều sụp đổ. Chủ thể tuyệt đối – cô đơn tuyệt đối. „ Quá cô đơn tôi mọc và cao hơn“, ta còn đọc được ở bài khác (Thông và Chớp). Và „Tôi mọc cao vượt trên người và thú; /Và tôi nói – chẳng ai nói với tôi“.

Với những phương tiện tiết kiệm nhất Nietzsche đã tạo ra một sự gia cường cực điểm. Hoạt cảnh được tạo dựng từ ít ỏi ảnh hình ám ảnh của khổ thơ thứ nhất, sự dạo đàn dây „thầm kín“ của tâm hồn, rót đầy linh hồn trỏ hướng tới một khán giả. Và nó cũng đả động tới một thính giả trong câu hỏi được điểm điểm xuyết một cách trào lộng ở cuối bài.

Max Kommerell (3) đã gọi Nietzsche là kẻ phát minh ra „kịch nghệ siêu nghiệm„. Một cách diễn đạt chính xác vô cùng. Nietzsche đã dẫn nhập cái tôi trữ tình vào một vai trò không được biết đến cho tới thời điểm đó: Bởi vì sự cô đơn ông kiến tạo nên bao trùm đến mức nó không còn cho phép có khán giả nữa, tới mức cái Tôi thực hiện cả hai chức năng, nói thẳng ra là người ca và người nghe. Và bất cứ sự biểu lộ nào của ông cũng đồng thời là sự tự phác thảo, tự trình bày, tự quan sát, tự diễn giải và tự thoại.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức (còn sửa)

Nguồn : Zu einsam wuchs ich und zu hoch - Frankfurter Anthologie, Insel Verlag Frankfurt am Main 1982, Zweite Auflage, Fünfter Band.

Vơ-ni-dơ

Friedrich Nietzsche (1844-1900)

Mới đây thôi tôi đứng
Trên chiếc cầu, trong đêm tối màu nâu.
Tiếng hát vọng về từ chốn xa đâu:
Cuộn những giọt kim vàng
Trào qua miền đang run lên, lai láng.
Âm nhạc, thuyền gondela, ánh sáng
Chuyếnh choáng bơi vào tảng sáng ban mai…

Linh hồn tôi, một bản dạo đàn dây,
Thầm hát cho mình, cảm bồi hồi kín đáo,
Một bài hát chèo thuyền hòa tấu,
Run rẩy nghe lòng dạ xốn xang
- Có ai nghe lắng tiếng hồn chăng?...

©®Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Venedig

Friedrich Nietzsche (1844-1900)

An der Brücke stand
jüngst ich in brauner Nacht.
Fernher kam Gesang:
goldener Tropfen quoll′s
über die zitternde Fläche weg.
Gondeln, Lichter, Musik -
trunken schwamm′s in die Dämmerung hinaus...

Meine Seele, ein Saitenspiel,
sang sich, unsichtbar berührt,
heimlich ein Gondellied dazu,
zitternd von bunter Seligkeit.
- Hörte Jemand ihr zu?...

Chú thích của người dịch:

(1) August Graf von Platen-Hallermünde (1796-1835): Nhà thơ Đức, tên của một giải thưởng văn chương Bavaria, được biết tới bởi những bài sonnets về Venice về cái đẹp và sự suy tàn.

(2) Conrad Ferdinand Meyer (1825-1898): Nhà thơ, nhà văn của chủ nghĩa Hiện thực người Thụy sĩ.

(3) Max Kommerell (1902-1944): Nhà văn, dịch giả và nhà biên soạn văn học sử.

Christa Melchinger, sinh năm 1943: Nhà báo, ký giả.

Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 –1900): Triết gia, nhà văn, nhà thơ Phổ (Đức). Là giáo sư ngành ngữ văn học, ông viết nhiều bài phê bình về tôn giáo, đạo đức, các vấn đề văn hóa đương thời, và triết học. Các tác phẩm của Nietzsche nổi bật với phong cách viết của ông, thường mang tính cách ngôn (Aphorism) và nhiều nghịch lý hơn là mức độ thông thường của khảo luận triết học. Suốt trong cuộc đời Nietzsche không được đánh giá cao bởi những người đương thời, nhưng đầu thế kỉ 20, ông đã được giới trí thức ở Đức, Pháp và Anh đánh giá lại và công nhận. Ông bắt đầu bị mang tiếng xấu tiếng khi Đảng Quốc Xã của Đức tôn thờ ông như một bậc tiền bối tư tưởng, mặc dù Nietzsche có quan điểm phản đối Chủ nghĩa Bài Do Thái và Chủ nghĩa Dân tộc Đức. Sau Thế chiến thứ hai, triết gia Walter Kaufmann bắt đầu một cố gắng bền bỉ nhằm khôi phục lại danh tiếng của Nietzsche trong các nước nói tiếng Anh, và vào nửa sau của thế kỉ 20, Friedrich Nietzsche đã được xem là một nhân vật quan trọng có ảnh hưởng lớn trong triết học hiện đại. Trực tiếp và gián tiếp (thông qua Martin Heidegger), Nietzsche đã ảnh hưởng đến thuyết Hiện sinh (Existentialism), chủ nghĩa Hậu hiện đại (Postmodernism), Phân tâm học (Psychoanalysis) và nhiều tư tưởng phái sinh.

Tranh của Auguste Renoire (1841-1919): Họa sĩ Pháp, đại diện quan trọng của phái Ấn tượng (Impressionism).

Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2021

Vơ-ni-dơ

Friedrich Nietzsche (1844-1900)   



Mới đây thôi tôi đứng
Trên chiếc cầu, trong đêm tối màu nâu.
Tiếng hát vọng về từ chốn xa đâu:
Cuộn những giọt kim vàng
Trào qua miền đang run lên, lai láng.
Âm nhạc, thuyền gondela, ánh sáng
Chuyếnh choáng bơi vào tảng sáng ban mai…

Linh hồn tôi, một bản dạo đàn dây,
Thầm hát cho mình, cảm bồi hồi kín đáo,
Một bài hát chèo thuyền hòa tấu,
Run rẩy nghe lòng dạ xốn xang
- Có ai nghe lắng tiếng hồn chăng?...

©®Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Venedig

Friedrich Nietzsche (1844-1900)

An der Brücke stand
jüngst ich in brauner Nacht.
Fernher kam Gesang:
goldener Tropfen quoll′s
über die zitternde Fläche weg.
Gondeln, Lichter, Musik -
trunken schwamm′s in die Dämmerung hinaus...

Meine Seele, ein Saitenspiel,
sang sich, unsichtbar berührt,
heimlich ein Gondellied dazu,
zitternd von bunter Seligkeit.
- Hörte Jemand ihr zu?...

Chú thích của người dịch:

Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 –1900): Triết gia, nhà văn, nhà thơ Phổ (Đức). Là giáo sư ngành ngữ văn học, ông viết nhiều bài phê bình về tôn giáo, đạo đức, các vấn đề văn hóa đương thời, và triết học. Các tác phẩm của Nietzsche nổi bật với phong cách viết của ông, thường mang tính cách ngôn (Aphorism) và nhiều nghịch lý hơn là mức độ thông thường của khảo luận triết học. Suốt trong cuộc đời Nietzsche không được đánh giá cao bởi những người đương thời, nhưng đầu thế kỉ 20, ông đã được giới trí thức ở Đức, Pháp và Anh đánh giá lại và công nhận. Ông bắt đầu bị mang tiếng xấu tiếng khi Đảng Quốc Xã của Đức tôn thờ ông là một bậc tiền bối tư tưởng, mặc dù Nietzsche có quan điểm phản đối Chủ nghĩa Bài Do Thái và Chủ nghĩa Dân tộc Đức. Sau Thế chiến thứ hai, triết gia Walter Kaufmann bắt đầu một cố gắng bền bỉ nhằm khôi phục lại danh tiếng của Nietzsche trong các nước nói tiếng Anh, và vào nửa sau của thế kỉ 20, Friedrich Nietzsche đã được xem là một nhân vật quan trọng có ảnh hưởng lớn trong triết học hiện đại. Trực tiếp và gián tiếp (thông qua Martin Heidegger), Nietzsche đã ảnh hưởng đến thuyết Hiện sinh (Existentialism), chủ nghĩa Hậu hiện đại (Postmodernism), Phân tâm học (Psychoanalysis) và nhiều tư tưởng phái sinh.


Tranh của Claude Monet (1840-1926): Họa sĩ Pháp, đại diện quan trọng của phái Ấn tượng (Impressionism).

Thứ Hai, 22 tháng 11, 2021

Nhật thực của tâm hồn

Renate Schostack    



Bài thơ vắng mặt trong phần lớn các hợp tuyển, không thuộc về những cảnh tượng hoàn hảo nhất của thơ trữ tình. Ở đó chẳng cò gì tròn trịa cả; một thứ vừa mới manh nha bằng một cử chỉ lớn lao, đã khựng lại; lỗi về hình thức (thiếu đi một „lúc“), chữ dùng dở („rón rén“, „phốt pho“) lộ ra nét vụng về. Mặc dù thế đây vẫn là một trong những bài thơ thú vị nhất của Goethe, bởi nó lưu giữ lại khoảnh khắc khi một tượng đài tự nó trật nhào ra khỏi đế, nhà thi sĩ rũ đi cái áo choàng của bậc thầy mang sắc thái Phương Đông.

„Dư âm“, được viết vào tháng Mười một năm 1815 cho tập hợp „Đông Tây thi tập“, là một tiếng hát chiêu niệm cái đã qua. Lần cuối cùng vào hai tháng trước đó, tại Heidelberg Goethe đã gặp Marianne von Willemer (1). Người ta chẳng cần đi sâu vào những chi tiết mang tính tiểu sử. Tuy nhiên dấy lên ở đây sự so sánh với bài thơ „Gửi vầng trăng“, trong đó cái từ tiêu đề đã được tiên liệu trước. Dạo xưa Goethe đã gửi bài thơ này cho Charlotte von Stein (2). Cũng chất bi thương ở đó: „Tim anh cảm nhận dư âm/Thời vui phấn chấn hay u trầm.“ Ba mươi năm cách nhau giữa hai bài thơ, và khẩu khí đã thay đổi. Nơi đó nỗi nhớ nhung man mác; ở đây nỗi đớn đau trần trụi.

Mà thế trước hết ra mắt cái người nói về mình trong vai trò kẻ thứ ba như một ông hoàng của thi ca. Cái màn rạp hoàn toàn phù hợp với thi tập bay phất phới. Ông ấy tự trích dẫn bản thân „Helios ơi người vĩ đại“, như ông tự gọi mình trong bài thơ ra đời sát ngay trước đó („Hình ảnh cao sang“); ở đó đầy rẫy lời xưng tụng về nào là „cộng đoàn đế vương “ „báu vật vương giả“, „dấu ấn đế vương của sự tồn sinh“. Bây giờ người ta đọc thấy điều đó khác đi. Sự tồn sinh được tụng ca cao độ tiềm ẩn nỗi khổ đau được giấu che một cách tinh tế.

Nhưng rồi cái mặt nạ rơi xuống. Gần như im hơi lặng tiếng nhà thi sĩ rời ra khỏi thế giới của Thi tập, nơi„chiếc mạng của tình yêu trần tục“, cứ cho rằng thế, còn che giấu những „mối quan hệ cao hơn“. (Điều này Goethe đã viết về cuốn sách „Suleika“ trong tờ „Báo ban sáng dành cho tầng lớp được đào tạo). Tức là cái tình cảnh của tâm hồn phản chiếu, tiên liệu trước về thơ ca sau này va tuy hãy còn giữ khoảng cách trong dự báo thời tiết; mà thế sự thú nhận chỉ có thể được đưa ra bởi người xưng ngôi thứ nhất.

Toàn bộ khổ thơ thứ hai này đòi hỏi ta phải nhớ về lý thuyết màu, nơi màu xanh dương – một trong hai màu chính thuần khiết – hàm nghĩa bóng tối được rạng tỏ lên dần qua ánh sáng. Trong khi đó sự thể không xoay quanh chất triết lý trong bài thơ này, không xoay quanh cuộc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối thông qua đó người khách trần gian sấu muộn phải phát huy bản thân thành ra một nhân cách. Chỉ có ánh sáng của tình yêu mới có thể vượt bỏ được đêm tối này.

Khóc lóc, nhợt nhạt, hốc hác, một bức tranh của kêu rên, đúng như thế kẻ hóa trang ban đầu rất uy nghi phong độ đã tìm đến người yêu. Đó là một tiếng kêu cứu, như chưa bao giờ ông ấy từng thở hắt ra một cách không che đậy trong toàn bộ tác phẩm thơ của mình. Bên cạnh đó „Khúc hát ban đêm“ cũng nhạt nhòa đi thành một sự nhún nhẩy trần trụi. („Ôi hãy mộng mơ, xin hãy rủ tai nghe/ Từ nơi gối êm trướng rủ màn che.“) (3) và chỉ trong lời cầu nguyện của Gretchen („ Ôi Đức Mẹ đau thương giàu ơn phước, hãy nghiêng gương mặt Người xuống đời con cùng cực“) (4), tất nhiên hướng tới một thế lực siêu phàm, mới giãi bày được ở đó một trạng thái tâm hồn tương tự như thế. Những mối tương quan đã đảo ngược. Mặt trời không còn là thi nhân nữa, mà chính là người yêu. Nàng ta xuất hiện trong mọi cường độ của ánh sáng, chiếu tỏa êm dịu và bình lặng, tự phát sáng quyến rũ, chói lọi ánh hào quang.

Còn không thì người viết những vần thơ này gửi cô nàng ba mươi mốt tuổi đã sáu mươi sáu xuân xanh. Và ông ấy không bao giờ gặp lại Marianne von Willemer nữa.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Nguồn: Verfinsterung der Seele - Frankfurter Anthologie, Insel Verlag Frankfurt am Main 1982, Zweite Auflage, Fünfter Band.

Dư âm

Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832)

Nghe mới kỳ vĩ sao, nếu người thi sĩ
So mình với hoàng đế, lúc với vầng dương;
Ấy thế y giấu đi những bộ mặt buồn bã
Khi rón rén trong những đêm tối thê lương.

Bị ám bởi những hàng mây phủ
Trời xanh tinh khiết đổ xuống, đêm đêm
Đôi má tôi nhợt nhạt hốc hác thêm
Và những giọt lệ của tim tôi u ám.

Đừng buông tôi vậy cho đêm, cho đau đớn
Người yêu nhất, em, mặt trăng của tôi!
Ôi, phôt pho của tôi, của tôi những ngọn nến
Ánh sáng của tôi, của tôi hỡi mặt trời!

Nguyên tác tiếng Đức:

Nachklang

Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832)

Es klingt so prächtig, wenn der Dichter
Der Sonne bald, dem Kaiser sich vergleicht;
Doch er verbirgt die traurigen Gesichter,
Wenn er in düstern Nächten schleicht.

Von Wolken streifenhaft befangen,
Versank zu Nacht des Himmels reinstes Blau;
Vermagert bleich sind meine Wangen
Und meine Herzenstränen grau.

Laß mich nicht so der Nacht, dem Schmerze,
Du Allerliebstes, du mein Mondgesicht!
Oh, du mein Phosphor, meine Kerze,
Du meine Sonne, du mein Licht!

Chú thích của người dịch:

(1) Marianne von Willemer: (1784-1860): Diễn viên, ca sĩ, vũ nữ, gặp gỡ Goethe trong hai năm 1814-1815. Là nàng thơ và đồng tác giả của một số bài trong Thi tập Đông Tây của thi hào.

(2) Charlotte von Stein (1742-1827): Nữ hầu tước, bạn gái và người tình của Goethe.

(3) O gib, vom weichen Pfühler,/ Träumend, ein halb Gehör – Thơ Goethe.

(4) Ach, neige,/Du Schmerzenreiche/ Dein Anlitz gnädig meiner Not- (Faust – Am Zwinger / Faust – Chân tường thành)

Renate Schostack (1938-2016): Nhà báo và nhà văn nữ người Đức.

Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832): Thi hào Đức cùng với Friedrich Schiller trở thành đại diện quan trọng nhất của trào lưu Cổ điển Weimar, nhiều tác phẩm thuộc về đỉnh cao của văn chương thế giới, có sự nghiệp đồ sộ trải rộng trên nhiều lĩnh vực thơ, văn xuôi, kịch, nghiên cứu khoa học tự nhiên, họat động chính trị.

Tranh của William Turner (1775-1851): Họa sĩ Anh, dại diện quan trọng của trào Lãng mạn trong hội họa.

Thứ Sáu, 19 tháng 11, 2021

Dư âm

Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832)

  


Nghe mới kỳ vĩ sao, nếu người thi sĩ
So mình với hoàng đế, lúc với vầng dương;
Ấy thế y giấu đi những bộ mặt buồn bã
Khi rón rén trong những đêm tối thê lương.

Bị ám bởi những hàng mây phủ
Trời xanh tinh khiết đổ xuống, đêm đêm
Đôi má tôi nhợt nhạt hốc hác thêm
Và những giọt lệ của tim tôi u ám.

Đừng buông tôi vậy cho đêm, cho đau đớn
Người yêu nhất, em, mặt trăng của tôi!
Ôi, phôt pho của tôi, của tôi những ngọn nến
Ánh sáng của tôi, của tôi hỡi mặt trời!

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Nachklang

Johann Wolfgang von Goethe 
(1749-1832)


Es klingt so prächtig, wenn der Dichter
Der Sonne bald, dem Kaiser sich vergleicht;
Doch er verbirgt die traurigen Gesichter,
Wenn er in düstern Nächten schleicht.


Von Wolken streifenhaft befangen,
Versank zu Nacht des Himmels reinstes Blau;
Vermagert bleich sind meine Wangen
Und meine Herzenstränen grau.

Laß mich nicht so der Nacht, dem Schmerze,
Du Allerliebstes, du mein Mondgesicht!
Oh, du mein Phosphor, meine Kerze,
Du meine Sonne, du mein Licht!

Chú thích của người dịch:

Johann Wolfgang von Goethe (1749-1832): Thi hào Đức cùng với Friedrich Schiller trở thành đại diện quan trọng nhất của trào lưu Cổ điển Weimar, nhiều tác phẩm thuộc về đỉnh cao của văn chương thế giới, có sự nghiệp đồ sộ trải rộng trên nhiều lĩnh vực thơ, văn xuôi, kịch, nghiên cứu khoa học tự nhiên, họat động chính trị.

Tranh của Henry Pether (1828–1865): Họa sĩ Anh.

Thứ Bảy, 13 tháng 11, 2021

Cái chết trong lồng lưới thép gai

Walter Hinck     




Nước Đan Mạch của Hamlet trong kịch của Shakespeare xưa đã không hề là một vương quốc có phép màu vô hiệu hóa thứ vũ khí mang tới cái chết. Thân phụ Ophelia chết bởi lưỡi kiếm của người yêu nàng, và còn cây liễu đó bên dòng nước nơi người đàn bà loạn trí bị những „giai điệu của lòng nàng“ kéo xuống „cái chết lầy bùn“ bên dưới.

Nhưng mà cái cốt lõi thơ ca này của vở kịch, sự tường trình của Hoàng hậu về kết thúc cuộc đời của Ophelia (IV,7), một cách thần kỳ, đã chắp cánh cho trí tưởng của những nhà thơ đời sau. Những bày tỏ nỗi buồn thương của một thiên nhiên đồng cảm chan chứa trong bài thơ „Ophelie“ của Rimbaud (1) viết năm 1870; bản thân Ophelia đã trở thành một phần thân thể của thiên nhiên: tự hơn ngàn năm nay, bóng dáng nhợt nhòa băng tuyết bồng bềnh trên sông nước gợi nhớ tới vẻ yêu kiều và nhân tính quá đỗi mong manh.

Vẻ đẹp ngọc ngà của hình thể trong thơ Rimbaud đã tan biến trong bài thơ về Ophelia của Georg Heym (2) („Trong tóc nàng lũ chuột con một ổ“). Nhưng mà cũng ở đây dòng sông dập dềnh đẩy đưa thân thể „đi qua vĩnh cửu“. Chỉ có chuyến đi xuyên qua thời gian của lịch sử, đi ngang qua những bến bờ gầm gào tiếng máy. Ophelia thu nạp quanh mình cái từ trường của đau thương và sự tiên cảm của thế giới hiện đại, nàng gánh vác nỗi „đớn đau u mặc“ của thời đại cơ giới đi tới một chân trời cháy lửa, một sự đắm chìm.

Bài thơ „Tuổi xuân tươi đẹp“ của Gottfried Benn (3) từ tập „Nhà xác“ tận dụng hiệu ứng gây sốc của motiv thuộc về Heym: trong thân thể của cô gái người ta kéo lên từ đám sậy, người bác sĩ mổ xẻ tìm thấy một tổ chuột. Đã trở thành khuyết danh, Ophelia là chủ thể của một trí phóng tưởng cay độc và phá tan mộng tưởng, trong khi bài thơ „Về cô gái chết đuối“ của Brecht (4) còn một lần gọi hồn đá „opal vạn hoa của bầu trời“, thứ có thể „trấn an“ lấy một cách“ thần diệu“ , kể cả khi viên đá ấy không thể dừng chặn được sự lãng quên và sự lụi tàn.

Nơi bài thơ Ophelia của Peter Huchel (lần cuối cùng vào năm 1972 xuất bản trong tập „Những ngày đếm được“) không còn xảy ra điều thần diệu nào nữa. Vào lúc trời âm u hửng sáng, một đội truy tìm, trang bị bằng những cọc sào, đã mò mẫm dò soát dòng nước; một cách vô cảm những người đàn ông tuân theo công việc như lệnh ban hành. Ở đây không có dòng sông nào ra tay che chở, không có thiên nhiên nào trợ giúp phân bổ dòng nước tới một hang động bảo vệ. Trong thế giới của bài thơ này chỉ có bắn hạ, một viên đạn đã bắn trúng và hạ sát Ophelia. „Lồng lưới dây thép gai“ là từ khóa của bài thơ này.

Trong thơ của Huchel đến tận tuổi già, phong cảnh miền Mark vẫn thường khi hiện diện, nơi ông sống qua tuổi thơ và tuổi thanh xuân. Những ảnh hình của miền sông Havel, của những ao hồ vùng Mark và những hồi tưởng của ông thôi thúc gần như áp đảo. Và luôn luôn đi về, những bài thơ của ông nói về những ngư chài và những công cụ đánh bắt, những lưới lồng bắt cá. „Chiếc lưới lồng sáng lên dưới cọc dầm,/ Con cá măng quẫy mạnh và té tát“ („Chuyến đi cuối“).

Bài thơ Ophelia nói tới một cái lưới lồng khác (và còn „Lồng lưới sao“, một dạng hoàn toàn khác nữa làm nên tiêu đề của tập thơ), tức là một lưới lồng phục vụ việc tóm bắt con người. Trong những „lưới lồng dây thép gai“ những kẻ trốn chạy giãy chết. Đã từ lâu chúng ta hiểu „dây thép gai“ như là chỉ dấu của cầm tù và sự giam cầm bất công những con người đau khổ. Như vậy cái chữ đó tích tụ bên trong tất cả những nghiệm trải phổ quát của một thời đại đã làm tất cả, để trở thành không chỉ là thế kỷ của những nhà chọc trời, mà còn của những trại tập trung rào kín, của những thành phố nhà tù. Nhưng mà bài thơ này, viết ra trong khoảng giữa 1963 và 1972 thu nạp trong cái từ trung tâm của nó cả kinh nghiệm đặc thù của thời kỳ sau chiến tranh, tức là giữa hai nhà nước Đức có đặt một chiếc lồng lưới bằng dây thép gai, kết thúc trong đó nhiều cuộc chạy trốn. Và như thế, còn cương quyết hơn trong thơ của Georg Heym, Ophelia được dẫn từ toàn cảnh thơ ca của vở kịch Hamlet đi vào thời đại lịch sử, tức là vào một thế giới đối nghịch lại không thương xót.

Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức 
Nguồn: Vom Tod in der Stacheldrahtreuse - Frankfurter Anthologie, Insel Verlag Frankfurt am Main 1982, Zweite Auflage, Fünfter Band.

Ophelia

Peter Huchel (1903-1981)

Kế đó, lúc ban mai,
đằng đẵng nhá nhem bạch nhật
bước bì bõm của những chiếc ủng
trong nước nông,
sự phóng găm những chiếc cọc đâm ,
một hiệu lệnh khô khốc,
họ bứng lên đầy bùn
chiếc lưới lồng gai thép.

Không vương quốc
Ophelia, nơi một tiếng gào
khoáy sâu vào nước,
một phép lạ,
viên đạn đồng
cho tan nát ở nơi lá liễu.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Ophelia

Peter Huchel (1903-1981)

Später, am Morgen,
gegen die weiße Dämmerung hin,
das Waten von Stiefeln
im seichten Gewässer,
das Stoßen von Stangen,
ein rauhes Kommando,
sie heben die schlammige
Stacheldrahtreuse.

Kein Königreich,
Ophelia, wo ein Schrei
das Wasser höhlt,
ein Zauber
die Kugel
am Weidenblatt zersplittern läßt.

Chú thích của người dịch:
(1) Arthur Rimbaud (1854-1891): Nhà thơ người Pháp, có ảnh hưởng lớn tới văn chương châu Âu
(2) Georg Heym (1887,1912): Nhà thơ Đức, là người mở đường cho Chủ nghĩa Biểu hiện (Expressionismus/Expressionism) trong văn chương.
(3) Gottfried Benn(1886-1956): Nhà thơ, nhà tiểu luận, bác sĩ Đức, thuộc số ít nhà thơ nổi tiếng nhất nửa đầu thế kỷ 20
(4) Bertolt Brecht (1898-1956): Nhà thơ, kịch tác gia gây ảnh hưởng lớn trong văn chương Đức thế kỷ 20.

Walter Hinck (1922 - 2015): Nhà ngữ văn Đức, giảng dậy tại Viện Ngôn ngữ Đức và Văn học, đại học Tổng hợp Köln; chuyên trách về Kịch Đức thế kỷ 18-20 và Thơ trữ tình thời Mới tới Hiện tại. Từ 1974 ông là viện sĩ Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Nordrhein-Westfallen.
Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên.
Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin
1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna
1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: "Die literarische Welt", "Das Innere Reich", "Die Kolonne" và "Vossische Zeitung".
1932: Giải thưởng thơ của tạp chí „Kolone“ cho tập thơ "Der Knabenteich" (Hồ của những cậu trai)
1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal.
1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức.
1941-1945: Nghĩa vụ quân sự, phục dịch trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam Soviet.
1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật.
1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập „Những bài thơ“.
1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng „Sinn und Form“ (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin.
1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. Từ 1956 đại diện DDR tại Biennale thơ ca quốc tế.
1953: Bị o ép từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải làm ngơ.
1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống.
1962: Từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“.
1963: Tập thơ „Chausseen, Chausseen“ xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane-Preis của Tây Berlin.
1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fotane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín.
1965: Không được rời DDR nhận chức thỉnh giảng về thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen.
1971: Nhờ có sự can thiệp của Viện hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ „Những ngày tính đếm“.
1976 – 1979: Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Jacob-Burckhardt-Preis und dem Eichendorff-Preis).
1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện hàn lâm thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông.
Peter Huchel mất năm 1981.

"Ophelia," 1851 - Tranh của John Everett Millais (1829-1896): Họa sĩ Anh.

Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2021

Ophelia

Peter Huchel (1903-1981)     




Kế đó, lúc ban mai,
đằng đẵng nhá nhem bạch nhật
bước bì bõm của những chiếc ủng
trong nước nông,
sự phóng găm những chiếc cọc đâm ,
một hiệu lệnh khô khốc,
họ bứng lên đầy bùn
chiếc lưới lồng gai thép.

Không vương quốc
Ophelia, nơi một tiếng gào
khoáy sâu vào nước,
một phép lạ,
viên đạn đồng
cho tan nát ở nơi lá liễu.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Ophelia

Peter Huchel (1903-1981)

Später, am Morgen,
gegen die weiße Dämmerung hin,
das Waten von Stiefeln
im seichten Gewässer,
das Stoßen von Stangen,
ein rauhes Kommando,
sie heben die schlammige
Stacheldrahtreuse.
Kein Königreich,
Ophelia, wo ein Schrei
das Wasser höhlt,
ein Zauber
die Kugel
am Weidenblatt zersplittern läßt.

Chú thích của người dịch:

Peter Huchel (1903-1981): Nhà thơ và Biên tập viên.
Tiểu sử: 1903: Sinh tại Lichterfelde gần Berlin
1923-1926: Nghiên cứu Văn chương và Triết học tại Berlin và Vienna
1930-1936: In thơ và văn xuôi trên những tạp chí văn chương quen thuộc: "Die literarische Welt", "Das Innere Reich", "Die Kolonne" và "Vossische Zeitung".
1932: Giải thưởng thơ của tạp chí „Kolone“ cho tập thơ "Der Knabenteich" (Hồ của những cậu trai)
1934: Lập gia đình với Dora Lassel. Chia tay nhau năm 1946. 1953 Lập gia đình với Monica Rosenthal.
1934-1940: Viết kịch tương thanh cho đài truyền thanh Berlin và Làn sóng ngắn Đức.
1941-1945: Nghĩa vụ quân sự, phục dịch trong ngành không quân, cho đến khi bị bắt vào trại giam sô-viết.
1945-1948: Làm ở đài truyền thanh Đông Berlin, ban đầu với tư cách đạo diễn và từ 1947 giám đốc Đài phát thanh và Giám đốc nghệ thuật.
1948: In các sáng tác từ 1925 thành tập „Những bài thơ“.
1949-1962: Tổng biên tập của tờ tạp chí danh tiếng „Sinn und Form“ (Ý nghĩa và Hình thức) của Viện Hàn lâm Nghệ thuật Berlin.
1951: Giải thưởng quốc gia của DDR. Từ 1956 đại diện DDR tại Biennale thơ ca quốc tế.
1953: Bị o ép từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“. Nhờ sự can thiệp của Bertolt Brecht, chính quyền phải làm ngơ.
1961: Sau khi dựng bức tường Huchel bị tấn công vì quan điểm nghệ thuật động chạm đến hệ thống.
1962: Từ chức Tổng biên tập „Sinn und Form“
1963: Tập thơ „Chausseen, Chausseen“ xuất bản ở Tây Đức, ông được trao giải thưởng Theodor-Fontane-Preis của Tây Berlin.
1963-1971: Sau khi ông từ chối sự cưỡng bức phải chối bỏ giải thưởng Theodor Fotane, ông bị Stasi (An ninh quốc gia) theo dõi và cô lập. Ông bị cấm xuất bản và cấm ra nước ngoài, từ 1968 bị tịch thu thư tín.
1965: Không được rời DDR nhận chức thỉnh giảng về thơ ca tại trường Tổng hợp Frankfurt/Main cũng như nhận Giải thưởng lớn của bang Nordrhein Westfalen.
1971: Nhờ có sự can thiệp của Viện hàn lâm Nghệ thuật Tây Berlin và Chủ tịch trung tâm Văn bút quốc tế của Đức Heinrich Böll ông được rời DDR. Ông định cư tại Staufen bei Freiburg, xuất bản tập thơ „Những ngày tính đếm“.
1976 – 1979 Nhận nhiều giải thưởng văn chương danh giá (Jacob-Burckhardt-Preis und dem Eichendorff-Preis).
1979: Được bầu làm Viện sĩ Viện hàn lâm Nghệ thuật Bavaria và Viện hàn lâm thơ ca và Ngôn ngữ Darmstadt. Từ 1984 công bố giải thưởng văn chương mang tên ông.
Peter Huchel mất năm 1981.

Hoa Ác - Böse Blumen - Les Fleurs du Mal - Tranh của Anselm Kiefer (sinh năm 1945): Họa sĩ Đức, một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất đương đại.

Thứ Hai, 1 tháng 11, 2021

Gửi người yêu dấu

Rainer Maria Rilke (1875-1926)    




Đón lấy anh từ dốc cao em tới
Trong lễ phục, xiêm áo trắng tinh;
Gập nếp gấp vờn bay mềm sóng
Lất phất vào đơn độc đồng trinh.

Trên miệng em một lời thưa nở đóa,
Một vẫy chào thoáng ở bàn tay,
Và qua giờ đỏ sắc của chiều đây
Em đưa hạnh phúc vào miền đất mát…

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

An die Geliebte

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Du kommst mir hoch vom Hang entgegen
im Feierkleid, im weißen Kleid;
sein wellenweiches Faltenlegen
rauscht in die Aveeinsamkeit.

Ein Grüßen blüht auf deinem Munde,
ein Winken weht von deiner Hand,
und durch des Abends rote Stunde
führst du das Glück ins kühle Land...

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Đỗ Quang Em (sinh năm 1942): Vietnamese Painter.

Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

Vũ nữ Tây Ban Nha

Rainer Maria Rilke (1875-1926)    




Như trên tay một que diêm lưu huỳnh trắng
Hướng mọi phía phóng những lưỡi tia ra
Trước khi thành ngọn, vội vã, nóng rẫy và
Rạng rỡ, bắt đầu trong phạm vi gần của khán giả
Điệu vũ xoay của nàng tỏa lan hối hả.

Và đột nhiên là ngọn lửa hoàn toàn.

Với một ánh nhìn nàng châm mớ tóc
Và thoắt bằng nghệ thuật hiểm hóc
Xoay cả bộ xiêm vào lửa cuồng sinh
Từ đó như những con rắn giật mình,
Cánh tay trần vươn, kêu răng rắc, tỉnh táo.

Và rồi sau: như thể lửa với mình còn thiếu
Nàng gom vào tất thẩy và rũ đi
Rất đài các, với cử chỉ khinh khi
Và hãy nhìn xem: lửa loang trên mặt đất
Và còn bốc cháy và không chịu khuất -.

Mà thế đó vẻ đắc thắng và tự tin
Với nụ cười ngọt, đón chào, nàng ngẩng mặt lên
Và dập phẳng với đôi bàn chân nhỏ, cứng cỏi.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Spanische Tänzerin

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Wie in der Hand ein Schwefelzündholz, weiß,
eh es zur Flamme kommt, nach allen Seiten
zuckende Zungen streckt -: beginnt im Kreis
naher Beschauer hastig, hell und heiß
ihr runder Tanz sich zuckend auszubreiten.

Und plötzlich ist er Flamme, ganz und gar.

Mit einem: Blick entzündet sie ihr Haar
und dreht auf einmal mit gewagter Kunst
ihr ganzes Kleid in diese Feuersbrunst,
aus welcher sich, wie Schlangen die erschrecken,
die nackten Arme wach und klappernd strecken.

Und dann: als würde ihr das Feuer knapp,
nimmt sie es ganz zusamm und wirft es ab
sehr herrisch, mit hochmütiger Gebärde
und schaut: da liegt es rasend auf der Erde
und flammt noch immer und ergiebt sich nicht -.

Doch sieghaft, sicher und mit einem süßen
grüßenden Lächeln hebt sie ihr Gesicht
Und stampft es aus mit kleinen festen Füßen.

Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Edgar Degas (1834-1917): Họa sĩ, nhà điêu khắc người Pháp.

Thứ Ba, 26 tháng 10, 2021

Bài Sonnet Tháng Chạp

Georg Trakl (1887-1914)    




Đám nhào lộn kéo qua rừng, khi chiều tối,
Trên lưng ngựa nhỏ, trên cỗ xe lạ lùng.
Trong mây một kho vàng vẻ khóa kín như bưng,
Những làng mạc vẽ vào bản đồ tăm tối.

Cơn gió đỏ thổi những sợi lanh đen và lạnh.
Một xác chó thối rữa, một khóm cành thẫm máu bốc hơi.
Thấm kinh hãi màu vàng, cây sậy chảy trôi
Và mau lẹ đoàn đưa tang cuốn về nghĩa địa.

Túp lều của cụ già biến đi trong ảm đạm.
Dưới ao những báu vật lấp lóa ánh hào quang.
Trong quán nông dân hè nhau uống rượu vang.

Một cậu trai thẹn lướt tới một người đàn bà.
Trong tối một thày tu nhợt đi ảm đạm và hiền hòa.
Một cây trụi là bõ hầu của một người đang ngủ.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Dezembersonett

Georg Trakl (1887-1914)

Am Abend ziehen Gaukler durch den Wald,
Auf wunderlichen Wägen, kleinen Rossen.
In Wolken scheint ein goldner Hort verschlossen,
Im dunklen Plan sind Dörfer eingemalt.

Der rote Wind bläht Linnen schwarz und kalt.
Ein Hund verfault, ein Strauch raucht blutbegossen.
Von gelben Schrecken ist das Rohr durchflossen
Und sacht ein Leichenzug zum Friedhof wallt.

Des Greisen Hütte schwindet nah im Grau.
Im Weiher gleißt ein Schein von alten Schätzen.
Die Bauern sich im Krug zum Weine setzen.

Ein Knabe gleitet scheu zu einer Frau.
Ein Mönch verblaßt im Dunkel sanft und düster.
Ein kahler Baum ist eines Schläfers Küster.

Chú thích của người dịch:
Georg Trakl (1887-1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.
Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897 – 1905: Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng La tinh, tiếng Hy Lạp và Toán), không đỗ tú tài * 1908: Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành Dược* 1910: Học xong bằng Y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocaine quá liều.

Tranh của Erich Heckel (1883-1970): Họa sĩ, một trong những gương mặt tiêu biểu của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức.

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...