VIII
Thoắt cô bé hôm nay sang mười sáu
Nàng tìm thấy bốn cánh đậu chẽ ba… (1)
Như đám trai choai chen lấn ngoài xa:
Hoa bồ công anh ánh vàng mái tóc
Độc cần nước mở cánh sao săn sóc.
Ngồi lì đó sau cây độc cần nước
Vị thần ruộng to bè, độc gã trai tân.
Giờ đây cậu trộm ngó cô bé tới gần
Và cười và lăn lộn qua đồng trống
Của làn gió đang trào dâng sóng...
IX
Dưới giàn nho tôi mơ sâu giấc
Cùng cô bé tóc vàng của tôi
Bàn tay nàng ngọc ngà run bắn
Nóng trong tay tôi siết bồi hồi.
Trong phản xạ ánh sáng đi mất hút
Như một con sóc vàng chuyền cây,
Và quệt bóng đổ tím vào tà áo
Màu trắng trong cả vết mực dây.
Trong ngực ta, tuyết tràn hạnh phúc,
Lắng sự im tiếng nắng kim vàng.
Đâu đến đây trong áo bằng gấm vóc
Một con ong réo rắt phước ân ban…
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Lieben
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
VIII
Die Liese wird heute just sechzehn Jahr.
Sie findet im Klee einen Vierling ...
Fern drängt sichs wie eine Bubenschar:
die Löwenzähne mit blondem Haar
betreut vom sternigen Schierling.
Dort hockt hinterm Schierling der Riesenpan,
der strotzige, lose Geselle.
Jetzt sieht er verstohlen die Liese nahn
und lacht und wälzt durch den Wiesenplan
des Windes wallende Welle ...
IX
Ich träume tief im Weingerank
mit meiner blonden Kleinen;
es bebt ihr Händchen, elfenschlank,
im heissen Zwang der meinen.
So wie ein gelbes Eichhorn huscht
das Licht hin im Reflexe,
und violetter Schatten tuscht
ins weisse Kleid ihr Kleckse.
In unsrer Brust liegt glückverschneit
goldsonniges Verstummen.
Da kommt in seinem Sammetkleid
ein Hummel Segen summen ...
Chú thích của người dịch:
(1) Đậu chẽ ba, còn có tên xạ trục thảo, lá gồm 3 cánh. Tìm được lá 4 cánh hiếm khi, người ta coi như gặp điềm may, gặp phúc
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Alfred Stevens (1823-1906): Họa sĩ người Bỉ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét