XVI
Sau một hạnh phúc tâm hồn tôi rạo rực
nỗi cuồng sự kỳ diệu ngắn ngủi, ngu si…
Trong róc rách nguồn suối và thông thầm thì
ấy tôi nghe điều đó đang gần lại…
Và nếu từ những ngọn đồi hồng tía đang viền dải,
con thuyền bạc bơi vào cõi xanh mịt mù.-
Rồi dưới những cây nở bông trĩu bóng âm u
tôi nhìn thấy điều đó đang gần sát.
Trong áo trắng; như người tôi yêu, người chết
ngày chúa nhật cùng tôi bước qua khóm bụi bông
trong trái tim một đóa hoa đỏ nọ,
nàng cũng mang thứ đó hay không?
XVII
Ta đi dưới hàng dẻ thu muôn màu sắc
Khóc đỏ mắt cả hai bởi đau đớn chia ly
„Nào anh yêu ta cùng tìm hoa đi!“
Tôi sợ hãi nói: „ Hoa kia đã chết“
Lời tôi nức nở – một ngôi sao nhợt
đứng trên tầng xanh ngây thơ mỉm cười.
Hấp hối ngày đi tới các đức cha, rã rời
và một con quạ gáy xám kêu ngoài xa vọng.-
XVIII
Trong mùa xuân hay trong giấc mộng
anh đã gặp em dạo đó, thủa xưa,
và giờ đây ta cùng nhau bước qua ngày thu,
và em nắm chặt tay anh và khóc.
Em khóc có vì những đám mây đuổi lướt?
Hay lá rơi đỏ như máu? Chẳng hồ như.
Anh cảm thấy, một lần em hạnh phúc
trong mùa xuân hay ở giấc mơ…
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:
Lieben
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XVI
Nach einem Glück ist meine Seele lüstern,
nach einem kurzen, dummen Wunderwahn ...
Im Quellenquirlen und im Föhrenflüstern
da hör ich's nahn ...
Und wenn von Hügeln, die sich purpurn säumen,
in bleiche Bläue schwimmt der Silberkahn, -
dann unter schattenschweren Blütenbäumen
seh ich es nahn.
In weissem Kleid; so wie das Lieb, das tote,
am Sonntag mit mir ging durch Staub und Strauch,
am Herzen jene Blume nur, die rote,
trug es die auch? ...
XVII
WIR gingen unter herbstlich bunten Buchen,
vom Abschiedsweh die Augen beide rot ...
"Mein Liebling, komm, wir wollen Blumen suchen,"
Ich sagte bang: "Die sind schon tot."
Mein Wort war lauter Weinen. - In den Äthern
stand kindisch lächelnd schon ein blasser Stern.
Der matte Tag ging sterbend zu den Vätern,
und eine Dohle schrie von fern. -
XVIII
Im Frühling oder im Traume
bin ich dir begegnet, einst,
und jetzt gehn wir zusamm durch den Herbsttag,
und du drückst mir die Hand und weinst.
Weinst du ob der jagenden Wolken?
Ob der blutroten Blätter? Kaum.
Ich fühl es: du warst einmal glücklich
im Frühling oder im Traum ...
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Julie Wolfthorn (1864-1944): Nữ họa sĩ Đức, gương mặt nổi bật của phái Hiện đại. Bà mất trong trại tập trung. Trừ các tác phẩm còn lại trong bảo tàng, tác phẩm đồ sộ của bà một thời gian dài bị coi như mất tích. Năm 2000, khi nhiều tranh được tìm thấy , nữ họa sĩ được phát hiện lại và trả về vị trí cao trọng trong nền nghệ thuật tạo hình của Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét