Thứ Năm, 14 tháng 7, 2022

Yêu

Rainer Maria Rilke (1875-1926)   



XIII

Rồi ngày dần chết. Cánh rừng huyền nhiệm,
và dưới chân bò tót tiên khách lai máu ròng,
những cây thông cao, gốc chen gốc, rực hồng,
vừa một cơn gió – và mùi nồng nã tới.

Em mòn mỏi trên con đường ta xa vợi,
anh khẽ gọi tên em tiếng ngọt ngào:
Với sức vóc lâng lâng hoang dại,
từ mầm huệ trắng của tim em vút cao
hoa huệ lửa của lòng say đắm.

Chiều ráng đỏ - và miệng em son đỏ thắm,
như môi anh tìm thấy nóng bỏng khát thèm,
và những ngọn lửa ấy đốt lòng ta phiêu hốt,
bén rân rân vào những áo tị hiềm…
Rừng im ắng và ngày đã chết.

Nhưng với ta Đấng Cứu Rỗi đã phục sinh, hơn hết
với ngày nhật chết đi sự ghen tị, và rầy rà.
Vầng trăng lớn đến đậu ngọn đồi ta,
hạnh phúc êm bước từ con thuyền trắng.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:

Lieben

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

XIII

Schon starb der Tag. Der Wald war zauberhaft,
und unter Farren bluteten Zyklamen,
die hohen Tannen glühten, Schaft bei Schaft,
es war ein Wind, - und schwere Düfte kamen.

Du warst von unserm weiten Weg erschlafft,
ich sagte leise deinen süssen Namen:
Da bohrte sich mit wonnewilder Kraft
aus deines Herzens weissem Liliensamen
die Feuerlilie der Leidenschaft.

Rot war der Abend - und dein Mund so rot,
wie meine Lippen sehnsuchtheiss ihn fanden,
und jene Flamen, die uns jäh durchloht,
sie leckten an den neidischen Gewanden ...
Der Wald war stille, und der Tag war tot.

Uns aber war der Heiland auferstanden,
und mit dem Tage starben Neid und Not.
Der Mond kam gross an unsern Hügeln landen,
und leise stieg das Glück aus weissem Boot

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh của Lita Cabellut (sinh năm 1961): Nữ họa sĩ Tây Ban Nha đương đại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...