XIV
Hoa tử đinh hương trong vườn chiếu ánh
chiều đầy dâng từ khúc nguyện Đức Bà,-
cũng lúc vừa đôi ta bước chia xa
trong buồn rầu và ray rứt.
Mặt trời trong những giấc mơ hầm hập sốt
đã chết sau những dốc xám mờ,
và sau những khóm bông cũng lụi tắt bây giờ
tà áo em màu trắng.
Anh nhìn theo chấm sáng dần khuất bóng
và cầm cập run như đứa trẻ nhát gan
đã nhìn hồi lâu vào ánh chói chang:
Giờ đây anh mù mắt?
XV
Thường trong anh em hiện ra như trẻ con, một cô nhóc, -
anh cảm thấy mình già tuổi và nghiêm trang,-
nếu chỉ tiếng cười trong sáng của em vang
trong lòng anh như chuông lảnh lót.
Thì trong nỗi ngạc nhiên lớn của con nít
đôi mắt em mở to, nóng và sâu,-
anh muốn hôn em và thì thào
những cổ tích đẹp nhất đời anh biết.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:
Lieben
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XIV
Es leuchteten im Garten die Syringen,
von einem Ave war der Abend voll, -
da war es, dass wir voreinander gingen
in Gram und Groll.
Die Sonne war in heissen Fieberträumen
gestorben hinter grauen Hängen weit,
und jetzt verglomm auch hinter Blütenbäumen
dein weisses Kleid.
Ich sah den Schimmer nach und nach vergehen
und bangte bebend wie ein furchtsam Kind,
das lange in ein helles Licht gesehen:
Bin ich jetzt blind? -
XV
Oft scheinst du mir ein Kind, ein kleines, -
dann fühl ich mich so ernst und alt, -
wenn nur ganz leis dein glockenreines
Gelächter in mir widerhallt.
Wenn dann in grossem Kinderstaunen
dein Auge aufgeht, tief und heiss, -
möcht ich dich küssen und dir raunen
die schönsten Märchen, die ich weiss.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Julie Wolfthorn (1864-1944): Nữ họa sĩ Đức, gương mặt nổi bật của phái Hiện đại. Bà mất trong trại tập trung. Trừ các tác phẩm còn lại trong bảo tàng, tác phẩm đồ sộ của bà một thời gian dài bị coi như mất tích. Năm 2000, khi nhiều tranh được tìm thấy , nữ họa sĩ được phát hiện lại và trả về vị trí cao trọng trong nền nghệ thuật tạo hình của Đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét