XIX
Nàng hồ như không có sử tích,
không sự kiện nào năm hết năm sang,-
Bỗng một lần choán ngợp ánh rỡ ràng...
Tình yêu đến hay vừa điều chi đó.
Rồi nàng chợt thấy e dè băng tan rỏ,
trước nhà nàng bỗng đọng một vũng ao…
Vẻ như trong mơ sự đó khởi mào
và tàn lụi tựa như một số phận.
XX
Người ta nhận ra mùa thu tới. Ngày mau tận
chết dần trong máu huyết của riêng mình.
Trong ánh tà chỉ bông hoa cháy lung linh
trên chiếc mũ nhỏ xinh khép nép.
Đeo chiếc găng tay cũ mòn, nàng vuốt
bàn tay tôi âu yếm và khẽ khàng,-
Không ai trong con ngõ ngoài tôi và nàng
Nàng thảng thốt: Anh đi? - „ Anh đi đó“
Nàng đứng đây, mái đầu vùi sắc đỏ
của chia ly vào áo khoác của tôi…
Trên mũ bông hồng nghiêng đầu ánh đỏ ,
và chiều đêm mệt mỏi mỉm cười.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:
Lieben
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
XIX
SIE hatte keinerlei Geschichte,
ereignislos ging Jahr um Jahr -
auf einmal kams mit lauter Lichte ...
die Liebe oder was das war.
Dann plötzlich sah sie's bang zerrinnen,
da liegt ein Teich vor ihrem Haus ...
So wie im Traum scheint's zu beginnen,
und wie ein Schicksal geht es aus.
XX
MAN merkte: der Herbst kam. Der Tag war schnell
erstorben im eigenen Blute.
Im Zwielicht nur glimmte die Blume noch grell
auf dem kleinen verborgenen Hute.
Mit ihrem zerschlissenen Handschuh strich
sie die Hand mir schmeichelnd und leise. -
Kein Mensch in der Gasse als sie und ich ...
Und sie bangte: Du reisest? "Ich reise."
Da stand sie, das Köpfchen voll Abschiedsrot
In den Stoff meines Mantels vergrabend ...
Vom Hütchen nickte die Rose rot,
und es lächelte müde der Abend.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Amedeo Clemente Modigliani (1984-1920) Họa sĩ, điêu khắc gia người Ý.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét