Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

Con thiên nga

Rainer Maria Rilke (1875-1926)   
 
Tranh © Lyonel Feininger (1871-1956): Họa sĩ Mỹ

Sự gắng gổ này, đi hết qua việc chưa làm, tới đó
theo cách nặng nề cũng như chịu ràng buộc
tựa đường bước không thành của con thiên nga.

Và đang chết, sự không còn chạm tới
được đáy nền chúng ta đứng trên đó hàng ngày
tựa như cuộc tự- buông- hạ- thân- mình e sợ:

xuống mặt nước, đón lấy nó dịu dàng
những dòng, may mắn sao và đã quá giang
kéo lại sau lưng, cồn lên từng đợt sóng;

trong khi, vô cùng tự tại và yên ắng
con thiên nga, luôn thêm vẻ đĩnh đạc và đế vương
bình thản hơn, buông nghỉ nước dòng tuôn.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Der Schwan

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Diese Mühsal, durch noch Ungetanes
schwer und wie gebunden hinzugehn,
gleicht dem ungeschaffnen Gang des Schwanes.

Und das Sterben, dieses Nichtmehrfassen
jenes Grunds, auf dem wir täglich stehn,
seinem ängstlichen Sich-Niederlassen - :

in die Wasser, die ihn sanft empfangen
und die sich, wie glücklich und vergangen,
unter ihm zurückziehen, Flut um Flut;

während er unendlich still und sicher
immer mündiger und königlicher
und gelassener zu ziehn geruht.

1907

Một bản tiếng Anh (tìm từ mạng)

The Swan

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

This laboring through what is still undone,
as though, legs bound, we hobbled along the way,
is like the awkward walking of the swan.

And dying-to let go, no longer feel
the solid ground we stand on every day-
is like anxious letting himself fall

into waters, which receive him gently
and which, as though with reverence and joy,
draw back past him in streams on either side;

while, infinitely silent and aware,
in his full majesty and ever more
indifferent, he condescends to glide.

Translated by Stephen Mitchel

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương tiếng Đức.

Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).

Tranh © của Lyonel Feininger (1871-1956): Họa sĩ Mỹ, gốc Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...