Chúng tôi biết cái bằng không về cuộc đi tuyệt tận đó,
chẳng chia sẻ cùng. Chúng tôi chẳng có nguyên do
chỉ ra ngưỡng mộ và tình yêu hay oán thù
cho thần chết bị cái miệng che mặt nạ
của than vãn bi thương làm biến dạng đi kỳ lạ
thế giới còn đầy vai chúng tôi đóng trò,
chừng nào lo, liệu chúng tôi cũng vừa ý cho
thần chết cũng diễn trò, dẫu hắn không vừa ý.
Mà thế khi anh đi, đây đó hắt vào sân khấu
một vệt hiện thực qua khe nọ mỏng manh
anh đã đi qua tới đó; xanh của thực sự xanh,
nắng chân thực và rừng chân thực.
Chúng tôi diễn tiếp. Xướng lên điều học được
một cách dè dặt, gian nan, và sau sẽ đến thời,
vượt qua cử chỉ; nhưng sự Tồn thế của anh xa vời
nảy sinh từ vở diễn của chúng tôi, thư thoảng
có thể lay chuyển chúng tôi, như một sự hiểu biết
về hiện thực nọ, đang chìm xuống hạ màn,
khiến hồi lâu chúng tôi cuốn theo làn,
diễn vở cuộc đời, không nghĩ về tán thưởng.
©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức:
Todes-Erfahrung
Rainer Maria Rilke (1875-1926)
Wir wissen nichts von diesem Hingehn, das
nicht mit uns teilt. Wir haben keinen Grund,
Bewunderung und Liebe oder Hass
dem Tod zu zeigen, den ein Maskenmund
tragischer Klage wunderlich entstellt.
Noch ist die Welt voll Rollen, die wir spielen.
Solang wir sorgen, ob wir auch gefielen,
spielt auch der Tod, obwohl er nicht gefällt.
Doch als du gingst, da brach in diese Bühne
ein Streifen Wirklichkeit durch jenen Spalt
durch den du hingingst: Grün wirklicher Grüne,
wirklicher Sonnenschein, wirklicher Wald.
Wir spielen weiter. Bang und schwer Erlerntes
hersagend und Gebärden dann und wann
aufhebend; aber dein von uns entferntes,
aus unserm Stück entrücktes Dasein kann
uns manchmal überkommen, wie ein Wissen
von jener Wirklichkeit sich niedersenkend,
so dass wir eine Weile hingerissen
das Leben spielen, nicht an Beifall denkend.
Chú thích của người dịch:
Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức và châu Âu hiện đại.
Tiểu sử: Rainer Maria Rilke sinh ở Praha, Bohemia (thời đó là Áo-Hung, nay là Cộng hoà Séc) trong một gia đình công chức. Tuổi thơ sống ở Praha, sau đó ở München), Berlin, Paris, Thụy Sĩ. Học Văn học, Lịch sử nghệ thuật, Triết học ở Đại học Praha, Đại học München, Đại học Berlin. Những tập thơ đầu tiên, Leben und Lieder (Cuộc đời và những bài ca, 1894); Traumgekrönt (Đăng quang trong mơ, 1897)…, thể hiện những đề tài theo khuynh hướng suy đồi cuối thế kỉ 19. Sau 2 chuyến đi sang Nga (năm 1897 và 1900) Rilke gặp Lew Nikolajewitsch Tolstoi và tiếp nhận ảnh hưởng của văn học Nga. Năm 1901 kết hôn với nữ điêu khắc gia, họa sĩ Clara Westhoff và sinh con gái trong năm này, sau đó chuyển sang sống ở Pháp. Thế chiến thứ nhất xảy ra, Rilke tham gia quân đội một thời gian, sau đó sống ở München, năm 1919 sang Thụy Sĩ . Năm 1921 sống ở Muzot, hoàn thành Duineser Elegien (Bi ca Duino) viết dở từ năm 1912 và viết Die Sonette an Orpheus (Sonnet gửi Orpheus). Từ năm 1923 vì lý do sức khoẻ phải sống ở khu điều dưỡng Territet bên hồ Genève. Các bác sĩ không chẩn đoán đúng bệnh tình, chỉ trước khi chết không lâu mới xác định ra đó là bệnh máu trắng. Rilke qua đời ngày 29 tháng 12 năm 1926 tại dưỡng viện Val-Mont. Nhà thơ tự chọn cho mình câu thơ yêu thích khắc trên bia mộ: Rose, oh reiner Widerspruch, Lust, Niemandes Schlaf zu sein unter soviel Lidern. (Dịch: Bông hồng, ôi mâu thuẫn tinh khiết, thích thú là giấc ngủ không của riêng ai dưới bao hàng mi).
Tranh của Albert Marquert (1875 – 1947): Họa sĩ Pháp, đồng sáng lập phái Dã thú (Fauvism) trong Hội họa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét