Thứ Năm, 7 tháng 8, 2014

Cha tôi giữa những quê hương

Claudia Borchers Việt-Đức

Trong dòng xoáy của lịch sử Việt Nam thế kỉ vừa rồi có những số phận là tụ điểm của mọi xung đột và vận động của thời đại, song thời đại dường như không muốn nhớ đến. Erwin Borchers, một người Đức, mang tên Việt do Hồ Chủ Tịch đặt là Chiến Sĩ, thuộc về số ấy.

Sinh năm 1906 tại Straßburg (Elsaß) khi ấy còn thuộc Đức, theo học văn chương Đức và Pháp, ông sớm gia nhập Đảng Dân Chủ Xã Hội Đức và tham gia các hoạt động chống phát-xít, để cuối cùng phải sang Pháp, trốn sự truy bức của chính quyền Quốc Xã. Tại Pháp, lại bị quản chế vì bị tình nghi là gián điệp Đức, năm 1939 ông chọn con đường gia nhập quân đoàn lê dương của Pháp để thoát tù đầy và hi vọng đứng dưới ngọn cờ Pháp chống lại Đức phát-xít. Nhưng sau 2 năm ở Algérie rồi sang Đông Dương, thất vọng về mục tiêu tái chiếm Việt Nam làm thuộc địa của Pháp, ông cùng Rudolf Schröder, một trí thức cánh tả Đức, và Ernst Frey, một người Áo, đảng viên cộng sản, thành lập một chi bộ cộng sản trong quân đoàn lê dương của Pháp và bắt liên lạc với Việt Minh. Khi Nhật hất cẳng Pháp tại Đông Dương, ông bị Nhật giam giữ một số tháng. Năm 1945, cùng 2 người đồng chí kể trên, ông được một chiếc xe hơi Mĩ của Việt Minh đón về đại bản doanh của lực lượng kháng chiến, và được Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh đích thân đón nhận vào hàng ngũ kháng chiến. Trong suốt 9 năm kháng chiến, Erwin Borchers giữ nhiều trọng trách trong hoạt động tuyên huấn và địch vận, ra tờ báo đầu tiên của Việt Minh bằng tiếng Pháp, kêu gọi lính Pháp và lính lê dương trong quân đội Pháp bỏ hàng ngũ, về với chính nghĩa của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, giáo dục hàng binh và tù binh Pháp, ... và có mặt trong trận Điện Biên Phủ lịch sử.

Khác với Ernst Frey và Rudolf Schröder - cả hai đều trở về châu Âu khi ảnh hưởng của Trung Hoa Đỏ từ đầu những năm 50 ngày càng lớn và những cuộc chỉnh huấn trong Việt Minh theo mô hình Mao ngày càng gia tăng- Erwin Borchers ở lại Việt Nam với gia đình, người vợ Việt Nam và ba đứa con, làm việc cho thông tấn xã Cộng hoà dân chủ Đức ADN tại Hà Nội. Trong thời kì Nhân văn-Giai phẩm, ông bị canh gác và theo dõi. Năm 1965, ông cùng gia đình rời khỏi Việt Nam, về sống tại Đông Berlin thuộc CHDC Đức, làm phóng viên đài phát thanh. Năm 1968, vì nhiệt liệt đón chào Mùa Xuân Praha, ông gặp rắc rối với "cấp trên", và một lần nữa đi tìm một quê hương mới: Erwin Borchers trốn sang Tây Berlin. Ông rất muốn trở về Strasbourg nay đã thuộc Pháp, nhưng không thể, vì tại đó ông sẽ bị bắt giam và truy tố vì tội đào ngũ và phản quốc. Năm 1984, 5 năm trước ngày bức tường Berlin sụp đổ, Erwin Borchers mất ở Tây Berlin, sau nhiều năm cô đơn và trầm cảm. [1]

Đầu năm 2004, Viện Goethe tại Hà Nội đã tổ chức một hội nghị về những người Đức phục vụ trong quân đội Pháp, bỏ hàng ngũ sang phía Việt Minh trong chiến tranh Đông Dương. Bài phát biểu sau đây của Claudia Việt-Đức Borchers, con gái Erwin Borchers, được đọc trong hội nghị này. Claudia Việt-Đức Borchers, hoạ sĩ, hiện sống ở Berlin.

 

Kính thưa các cô các bác, các vị khách quý cùng người chị gái, anh rể, cả con trai tôi cùng đi từ Berlin tới đây khiến lòng tôi vui mừng khôn xiết!
Ngày hôm nay và chính tại đây trên thành phố Hà Nội thân yêu, nơi tôi lớn lên, tôi coi việc được nói chút ít về người cha của mình là một điều vinh hạnh.

Hẳn không là ngẫu nhiên, sau 36 năm tôi lại lại có duyên với ông già Goethe, như người Đức thường gọi. Lần đầu tiên biết đọc và hiểu bài thơ Chào và Giã biệt của Goethe, tôi đã thật tự hào. Có lẽ khi đó tôi thuộc về số ít người nhiệt thành tìm hiểu tác phẩm của thi hào được giới thiệu như vậy ở nhà trường chăng?

 

Khi ông Heinz Schütte mời tôi nói về cha tôi, tôi đã nghĩ rất nhiều. Trước hết là câu hỏi: người đàn ông ấy có ý nghĩa gì trong tôi, đứa con gái của ông, vì với chúng tôi, các con ông, ông mang vẻ gì xa lạ. Ông là người Âu, có chiếc mũi dài, một người "mũi lõ", trắng trẻo và sáng sủa. Ðôi khi tôi sợ hãi vẻ xa lạ của ông. Ðó là một cảm giác pha trộn giữa yêu và sợ. Ông là một người cha dịu dàng: khi tôi khóc, ông bế tôi vào lòng và dỗ dành. Có lần mẹ kể rằng ngày giải phóng, khi chúng tôi từ rừng núi trở về Hà Nội, cha bế tôi trên tay vì sợ có sự gì xảy ra với tôi, suốt dọc đường hành quân dài 20 km mới tới trạm nối tiếp. Khi đó tôi mới 4 tuổi. Tôi được đặt tên là Việt-Ðức, hàm nghĩa Việt Nam và Ðức, nhờ trận đánh Ðiện Biên Phủ. Tôi sinh ra dưới một lán lều tre - nên mới đầu mẹ gọi tôi là con bé Mai. Dạo ấy cha tôi đi suốt ngày, một bữa về nhà nói với chúng tôi rằng ông phải đi Ðiện Biên Phủ, vậy nên đứa bé phải mang một cái tên gì gợi nhớ tới ông, nếu chẳng may ông không trở về từ mặt trận này. Và thế là tôi nhận cái tên Việt Ðức, một cái tên đã khiến tôi khá khổ sở. Tôi không ưa cái tên này vì nó đặc chất đàn ông. Trong trường học, chúng bạn coi tôi là cậu bé và điều đó khiến tôi giận dỗi. Còn ở Ðức, các bạn Ðức phát âm cái tên này cứng như "vịt đúc bằng sắt" vậy. Ngoài ra tôi biết quá ít về cha tôi. Những gì lọt vào tai tôi là những điều ta thán của mẹ như "bố con chẳng thấy mặt mũi đâu", "bố con chỉ ưa đám đàn ông tụ họp, chẳng chăm lo gì cho gia đình". Nhưng ông đi đâu? Chẳng lẽ ông luôn đi vắng? Tôi chỉ lờ mờ dự cảm rằng ông ở sâu trong rừng rậm. Trong lời kể của mẹ, cha tôi luôn vắng nhà. Suốt thời quân Nhật chiếm đóng Hà Nội, mẹ tôi nuôi giấu cha tôi một nơi, chăm bẵm ông, lo cháo cơm và thuốc lá. Hẳn bà phải rất yêu ông, vì dạo đó ai nuôi giấu một người Tây sẽ chịu tội tử hình.
 

Cha tôi có là một trí thức cao ngạo không? Gì thì gì, trong số người Đức rời bỏ hàng ngũ, ông bị nhiều kẻ luôn ganh tị. Tuy vậy cha thường nói với tôi rằng những năm tháng chiến tranh Ðông Dương là quãng thời gian bổ ích nhất của đời ông, cả khi trong rừng sâu đầy thiếu thốn. Nhiều khi không có gì mà ăn. Nhưng sự đồng cam cộng khổ của con người dạo đó, tình yêu của người Việt Nam dành cho ông đã xóa nhòa gốc gác Âu châu của ông. Cũng vì vậy, với chúng tôi, cha tôi có chút gì đặc biệt. Nếu cha và mẹ nói tiếng Pháp với nhau thì các con ngồi chầu rìa vì chúng tôi không hiểu tiếng Pháp. Căn nhà của chúng tôi là điểm gặp gỡ của người Ðức. Cha tôi là người thích quây quần.
Cách đây vài năm, ở một làng vùng Mecklenburg, do một sự tình cờ tôi gặp được một người Ðức xưa đi lính lê dương. Dạo ấy người đàn ông này bị bắt làm tù binh. Ông ta kể tôi nghe về cha tôi rằng, thay vì việc phải tẩy não người ta về mặt chính trị bố tôi lại thích trò chuyện về những chủ đề phi chính trị và còn uống bia với họ.

 

Trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, nhà chúng tôi ở bị theo dõi. Cha tôi có nhiều mối giao du với các trí thức ở Hà Nội. Ông có học và hiểu biết rộng. Chẳng ai ngạc nhiên là ông được nhiều phụ nữ bám quanh. Sau ngày giải phóng, ông gặp rắc rối với Đảng ở đây. Có thể nói là người ta đã bỏ rơi ông, coi ông là "quá tư sản", không đủ lòng "trung thành với đường lối" thời ấy. Ông cấm con cái là chúng tôi không đựợc hát những bài hát thiếu nhi mang màu sắc chính trị học ở trường về, bởi nội dung các bài hát đó quá giáo điều. Cha tôi luôn chống đối mọi giáo điều, nhưng trong thẳm sâu con tim ông vốn nguyên là một người cộng sản. Thất vọng vì tất cả, ông không muốn tham gia cuộc chiến tranh giải phóng tiếp theo ở Việt Nam. Thế nên trong hoàn cảnh đó, ông quyết định trở về quê hương, nước Đức. Chuyện đó xảy ra năm 1966.
 

Về đến Cộng hoà dân chủ Ðức, lúc đầu cha tôi hào hứng bởi ý tưởng một nước Ðức mới. Sự bẽ bàng đã tới cùng với mùa xuân Praha 1968. Ông đã thẳng thừng nói tuột ý nghĩ trong một cuộc họp chi bộ Đảng để rồi sống lặng lẽ, rút sâu mãi vào nội tâm. Nhưng càng vậy ông càng chăm lo hơn tới những đứa con đang học đại học của mình. Mười năm trước khi bức tường Berlin sụp đổ, ông nói với tôi: "Bố cứ cho nhà nước này giỏi lắm là 10 năm nữa. Nếu cứ tiếp như vậy thì sụp đổ hết mà thôi."
 

Cha tôi là một con người tốt bụng. Tôi cho rằng, dòng máu miền đất sông Rhein đã bảo tồn con người ông trải qua nhiều tháng năm rối ren và tàn tệ trong đời. Có lần ông nói với tôi rằng ông muốn được rắc nắm tro của mình vào một nơi nào đó trên đất Việt Nam. Việc đó chẳng bao giờ thực hiện được. Lúc tuổi đã cao, ông lại đổi chiến tuyến, bởi chua chát và thất vọng: ông sang Tây Berlin. Tuy vậy sau này tôi được biết, trước khi mất, hàng năm ròng ông rơi vào trạng thái u uất trầm cảm. Trong tôi còn lại một người cha, thế nào đó, như thể một người không có quê hương.
 

Ðôi khi tôi ước rằng cha tôi còn sống, để được nghe ý kiến của người về thời thế hôm nay. Người ta hay hỏi tôi: tôi suy nghĩ trong tiếng Ðức hay trong tiếng Việt. Ðiều ấy thật không mấy quan trọng nữa. Với người Ðức, tôi nghĩ bằng tiếng Ðức và bên bè bạn Việt Nam, tôi nghĩ bằng tiếng Việt. Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của tôi. Tôi tự hào làm người con của mẹ cha khác biệt hai dòng máu. Hoàn cảnh đó đã làm cuộc đời tôi phong phú hơn.
Xin chân thành cảm ơn mọi người đã dành chút thời gian lắng nghe.


©Phạm Kỳ Đăng dịch
Nguồn: © talawas



Irena, tranh của Claudia Borchers Việt Đức
Claudia Borchers Việt-Đức   

Phạm Kỳ Đăng
 

Giọng nói chị nhỏ nhẹ, cử chỉ chị đoan trang. Nếu chị có nói ngập ngừng lúc chia tay dưới giàn lan: „-Thế bao giờ rỗi lại qua nhà thăm nhé!“, tôi chỉ nghe thấy đôn hậu đang lên tiếng, tế nhị lạ lùng.
 

Chị sinh ra ở Bản Mù, giữa căn cứ địa du kích. Mẹ chị là bác Bình, người phụ nữ hình như đã thanh truyền cho tất cả con gái trong gia đình vẻ nhã nhặn rất mực dịu dàng, kể cho tôi nghe bà phải gồng gánh tha lôi đám con hay đau ốm suốt trong rừng âm u kháng chiến. Bộ đội rất nâng niu, nói như mẹ thì quá chiều chị, hay bế ẵm và cõng lên vai con bé tóc hoe vàng, con gái cưng của một người lính lê dương Đức phản chiến, cầm súng sang chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh.
 

Khi đến trường, hẳn chị là đứa bé gái nhút nhát, hay sợ hãi. Trẻ con thích thú nhào ra xem, la ó:“ Con Tây chúng mày ơi!“. Rồi vốc nước, vốc bùn, té cho phát khóc.
 

Từ 1962 đến 1965, khi gia đình chị về thủ đô, chị theo học trường Cao đẳng Mỹ thuật Hà Nội. Gợi nhớ về giai đọan đó, chị cười và nói „À, đó là đọan đời đẹp nhất mà. Tôi đóan có bao chàng trai mơ tường chị. Mê là phải, lời nói ấm nồng nàn và dáng dấp đằm thắm vị phương xa.
 

Năm 1966 gia đình chị phân chuyển về vùng Đông Đức. Được cấp nhà cửa vườn tực rộng rãi, nhưng những ngày đầu bà mẹ cứ nửa mếu nửa cười bắt gặp bầy con đông reo hò lúc trời mưa, mừng rỡ vì nhà dột. Mùa đông đầu ngủ lăn lóc trên sàn. Không can gì cả, chị em chị thích chơi ở vườn nhiều hơn, vì nó giống vườn quê nhà mình ở bên nước Việt.
 

1968 – 1973 chị học trường Đại học Tạo hình Dresden. Từ đó đến nay đã làm nhiều triển lãm. Tự tay chị may và ren một tấm vải phủ, phối hình và hòa mầu rất phụ nữ, để trước cái nền đó, cũng u nhã sắc mầu như chiếc phông của hoài tưởng, chị vẽ người mẫu, tĩnh vật, tái tạo những phong cảnh từ những bức ký họa hay từ những ảnh hình in trong tâm trí về vùng quê mẹ. Ở xưởng vẽ rất riêng tư ấy chị tiếp khách hàn mặc, các bạn học từ thời Hà Nội, các hoa sĩ theo phái đòan sang đây. Chị đưa họ về ở nhà riêng, chu đáo cho đồng nghiệp nữ nghèo từ Việt Nam sang, mượn cả đồ tư trang nữa. Dẫu không may mắn trong việc kiếm tiền vì lạ lẫm (hay vì không chiều ý) thương trường nghệ thuật, chị luôn hăm hở giúp các bạn triển lãm bán tranh, thêm chút đồng ra đồng vào, có thêm chút hồng cầu và chút mầu vẽ tiếp. Cốt cách chị khác biệt hẳn thói hay tỵ nạnh, cản trở nhau của một vài mày râu nghệ sĩ quèn đang bon chen trong các đội hình văn nghệ ở nước bạn cũng như nước nhà.
 

Anh chị em hội Mỹ thuật Tạo hình Việt Nam nhiều người nhắc đến chị. Ai cũng tưởng chị cao sang, thành đạt (vì chị không biết phàn nàn hoặc do đức quan tâm tới mọi người cũng nhẹ nhàng như chị tóat thầm lên vẻ sang trọng ấy). Thực ra chị gặp bất hạnh từ nhiều phía, nói ra đây nào có nghĩa lý gì. Nhưng chị không oán giận ai. Chưa bao giờ tôi nghe thấy chị nói xấu về một ai cả. Biểu lộ thái độ về con người nào đó, chị chỉ nói là „hay“, còn cái „không hay“ kia chưa bao giờ lên tiếng, chỉ ẩn ngụ trong vẻ thoáng cười. Nhưng là cái cười rất hồn nhiên, lành và dung lượng.
 

Có chị, cám ơn vì có chị, cánh anh em chúng tôi, mấy gã điên điên khùng khùng, hay châm chọc và cấu chí nhau, bỗng hiền lành và dễ bảo trở lại. Vì chị dịu dàng quá, thực như những nét mầu mềm mại trên khung lụa ẩm. Sự hiện diện của chị cho chúng ta hưởng một cơn gió lén thổi đây đó từ mặt sông nước khi ta tránh gắt dưới vòm phượng vĩ. Tất cả những làn gió lén đều hiếm cả, đến tựa như mơ màng giữa thanh thiên bạch nhật. Người ta sung sướng vì chẳng có nhu cầu tìm hiểu chúng từ đâu tới, mà thiếu những giây phút đó dù chói mấy đi nữa vẫn cứ thấy bóng tối bao quanh.
 

Chị có tập tranh bột mầu vẽ cảnh sông nước, phố xá và trường học cũ khi về thăm Hà Nội. Nhiều lúc cạn tiền, có người gạn hỏi mua, chị tìm lời khéo chối và âu yếm giữ gìn. Màu ở đó rung lắm, sáng lắm.
Tên chị là Việt Đức hàm nhã ý của một mỏi mong, hy vọng. Thự tế không xứng có làm cho nhã ý ấy đôi phút phải trạnh lòng. Nhưng chị không ngừng yêu mến mảnh nước Việt mà gửi lòng vào những khỏang màu thớ vải. Theo như một số người nhận xét, và hình như có lần chị thú thật, về sau này tại đất Đức, chị không tìm lại được phong độ ấy, chưa tìm lại được bộc phát của cảm xúc, mạnh như thổn thức, niềm thổn thức có như sắp diễn biến ở lối trước bao giờ mà lại chẳng là lối sau của thời gian.
    

© Phạm Kỳ Đăng
1991 - Nguồn: Tạp chí Đối Thọai số 4, 1992


Người đẹp lặng lẽ 

Adina Hähnel
 

Những ngừời đẹp lặng lẽ. Mảnh mai, gợi cảm, vẻ như dễ gẫy và đồng thời mạnh mẽ. Ai đã từng gặp những người đẹp của Claudia Borchers, sẽ trải nghiệm ấn tượng mạnh như níu bắt. Mãi sau này người xem mới hổi tưởng lại người đàn bà rét sợ sệt khoanh chéo hai cánh tay khiến ta chỉ muốn chòang tấm chăn lên người nàng cho đỡ lạnh, một người đàn bà tắm xong ngỡ ngàng thấy vẻ đẹp và niềm kiêu hãnh của mình, hoặc người đàn bà nằm gần như trải cơ thể cho người xem, đây, là tôi đây, hãy đón nhận, hãy nhìn tới đây. Claudia Borschers - nữ họa sĩ Berlin - không còn là người xa lạ trong Galerie Ines Schulz nữa. Cách đây hai năm, lần đầu tiên, nữ họa sĩ sinh năm 1950 tại Việt Nam, triển lãm tranh tại đây. Sau khi chị tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật tại Hà Nội, từ 1968 tới 1973, chị đã theo học tại Đại học Nghệ thuật Tạo hình Dresden. Hỏi chị về người thầy nào quan trọng nhất, ngay tức khắc chị nói một cái tên: đó là giáo sư Gerhard Kettner. Chị chỉ học ông thầy này một năm trong khóa học cơ bản. Tuy vậy, Kettner đã rèn luyện chị hơn bất cứ một ông thầy nào khác. Claudia Borchers nói, chị ơn ông dậy cho cách nhìn, gần như ông đã mở tầm mắt cho chị, chỉ cho biết cách nắm bắt hình, làm thế nào để tri nhận và hoán cải một cách nghệ thuật cái mình nhìn thấy. Người ta nhìn ra những gì nếu chiêm ngưỡng tác phẩm của chị? Người ta có thể thấy chị yêu những nguời đẹp lặng lẽ của mình. Chị chỉ ra tất cả nơi thân thể, và tuy thế chị không bao giờ bỏ rơi họ. Bằng một cung cách đặc biệt, nữ họa sĩ 55 tuổi chỉ cho ta xem thân thể đàn bà. Người đẹp lặng lẽ đang ở tư thế truồng, bất giác có một khỏang cách nào đó nhắc nhở trên nửa đường đến gần, nhìn tôi đây, nhưng đừng xúc phạm tôi bằng cái nhìn của anh, đừng lột áo xiêm tôi nhiều hơn thế nữa. Không thể nào áp sát, các tư thế nhất định đã ngăn lại, bảo vệ cho cơ thể. Và một sự bền vững trong nét vẽ. Có thể nêu ở đây một thí dụ cho điều này khi ta xem hai tranh vẽ giống nhau: Đầu người 11 và Đầu người 12. Mắt, trán, mũi tất cả biến hình. Một người đàn bà đăm đăm nhìn họ, người đàn bà kia mắt nhìn có vẻ suy tư. Không có gì thiếu cả, không thừa một nét, đã nói lên tất cả. Đường nét vẽ giảm thiểu vào cái cơ bản, phác khoanh hình rõ, không có gì ẩn giấu trong ánh sáng và bóng tối. Phong cách này hẳn liên quan tới quãng thời gian thụ học ở trường họa Hà Nội. Ở đó các thầy đòi hỏi phải tận tâm với chính mình. Giả làm ra giống như thực là điều tối kỵ. Ở đó người ta đề cao nét vẽ nghiêm ngặt và giản. Và bây giờ, nếu như nhìn lại tác phẩm của mình bằng nhãn quan hôm nay chị vỡ lẽ ra rằng, chị đã quay về với các thầy dậy chị ở Việt Nam.

Điều khiến ta thú vị là tranh đồ họa, tranh bản kẽm, ký họa, sơn dầu không tạo cảm giác cứng và khô. Ngược lại, tranh của chị tỏa ra một vẻ nhẹ nhàng, gây rung động và lướt chạm. Bởi thế cho nên , không chỉ tính bền vững mà cả vẻ nhẹ nhàng đều thấu đáo mọi tờ tranh của chị, từ đó sinh ra những „người đẹp lặng lẽ“ rạng rỡ dung nhan và hài hòa khiến người xem tranh chìm đắm vào thế giới ảnh hình, nhưng rồi không ngợp và chết đuối trong đó. Những „người đẹp lặng lẽ“ của Claudia Borchers, họ không những lặng lẽ, không những đẹp, họ có thật ở trên đời. Ta muốn nói chuyện với họ. Ngay bây giờ. Ngay lập tức. Rất lạ là những „người đẹp lặng lẽ“ trả lời ta. Đó là điều đặc biệt ở những người đàn bà này. Đó là nghệ thuật của Claudia Borchers.
 

© Phạm Kỳ Đăng dịch
09.04.2013 (dịch từ tiếng Đức, đầu đề do người dịch đặt)

Xem tranh của họa sĩ Claudia Borchers
Bản tiếng Đức:

 
Claudia Borchers stellt in der Galerie Ines Schulz aus

 
Adina Hähnel
 

Die stillen Schönen. Sie sind zart, sie sind sinnlich, sie wirken zerbrechlich und gleichzeitig stark. Wer sich auf die Schönen von Claudia Borchers einlässt, erlebt ihre bestechende Wirkung. Noch lange später fallen sie einem wieder ein, die Frierende, die ihre Arme so ängstlich verschränkt, dass man ihr am liebsten eine Decke umlegen möchte; die Frau nach dem Bad, die sich auf ihre Schönheit besinnt und auf ihren eigenen Stolz; oder die Liegende, die sich dem Betrachter fast hinwirft, hier, nimm mich, das bin ich, schau hin. Die Berlinerin Claudia Borchers ist keine Fremde in der Galerie von Ines Schulz. Vor zwei Jahren stellte die 1950 in Vietnam geborene Malerin hier das erste Mal aus. Nachdem sie in Hanoi die Kunstschule absolviert hatte, studierte sie von 1968 bis 1973 an der Hochschule für Bildende Künste in Dresden. Fragt man sie nach ihrem wichtigsten Lehrer, nennt sie sofort einen Namen: Professor Gerhard Kettner. Sie erlebte ihn im Grundlagenstudium nur für ein Jahr. Und dennoch habe Kettner sie mehr geprägt als jeder andere Lehrer. Claudia Borchers sagt, sie verdanke ihm das Sehen, er habe ihr geradezu die Augen geöffnet, ihr gezeigt, wie man die Form erfasse, wie man das, was man sieht, künstlerisch begreifen und umsetzen könne. Was kann man sehen, wenn man sich ihre Arbeiten betrachtet? Man kann sehen, dass sie ihre stillen Schönen liebt, dass sie alles von ihnen zeigt und sie dennoch nicht preisgibt. Die 55-Jährige zeigt den weiblichen Körper auf eine besondere Art und Weise. Sind die stillen Schönen nackt, wird auf halbem Wege der Annäherung eine gewisse Distanz hergestellt, schau mich an, aber verletze mich nicht mit Deinem Blick, zieh mich nicht noch mehr aus. Ein Annähern scheint unmöglich, bestimmte Haltungen blocken ab, schützen die Figur. Und dann diese Nachhaltigkeit im Strich. Ein Beispiel dafür sind zwei an sich ähnliche Zeichnungen: Kopf 1 und Kopf 11. Die Augen, die Stirn, der Mund, alles vibriert. Eine Frau schaut sie offen an, die andere blickt eher nachdenklich. Nichts fehlt, kein Strich ist zuviel, alles ist gesagt. Die Linienführung beschränkt sich auf das Wesentliche, klar umrissen, nichts wird in Licht und Schatten versteckt. Das habe wohl mit ihrer Zeit der Malschule in Hanoi zu tun. Dort hätten die Lehrer verlangt, ganz bei sich zu sein. Dort sei es verpönt gewesen, Realität vorzutäuschen. Dort galt der strenge, einfache Strich. Und wenn sie ihre Arbeiten im Rückblick betrachte und ihre heutige Sicht auf die Dinge, falle ihr auf, dass sie zurückgekehrt sei zu ihren Lehrern nach Vietnam.

Was frappierend ist, ihre Grafiken, Radierungen und Zeichnungen, Ölbilder, sie wirken nicht streng, nicht festgefahren. Im Gegenteil. Sie strahlen eine Leichtigkeit aus, die beschwingt und berührt. So kommt es, dass sowohl diese Nachhaltigkeit und diese Leichtigkeit ihre Blätter bestimmen, dass ihre "stillen Schönen" so bestechend klar und gleichzeitig harmonisch daherkommen, dass der Betrachter in der Bilderwelt versinkt, dass er eintaucht und dennoch nicht ertrinkt. Die "stillen Schönen" von Claudia Borchers, sie sind nicht nur still, sie sind nicht nur schön, sie sind wahrhaftig. Man möchte mit ihnen reden. Jetzt. Sofort. Das Seltsame ist, "stillen Schönen" antworten. Das ist das Besondere an ihnen. Das ist die Kunst von Claudia Borchers.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...